http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/53841
hánh
Đăng Ngữ Lục cho biết có am Tri Kiến trước ngày Thượng hoàng Trần Nhân Tông vân
du đến phía Bắc xứ Thuận Hóa (tức Quảng Bình ngày nay) vào năm 1301.
Hơn
một năm sau khi xuất gia, tháng 3 năm Tân Sửu, niên hiệu Hưng Long thứ 9
(1301), Thượng hoàng Trần Nhân Tông đi chơi các địa phương, sang Chiêm Thành và
đến tháng 11 năm ấy Ngài trở về như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã chép. Sự kiện
này hoàn toàn khớp với Thánh Đăng Ngữ Lục và Tam Tổ Thực Lục đã ghi: “Sau ở
chùa Phổ Minh của phủ Thiên Trường, Thượng hoàng mời đến các danh tăng, mở lớn
các trường giảng, trải mấy năm bèn vân du phương ngoại, đến trại Bố Chính, chọn
am Tri Kiến để ở”.
Sách
Tam Tổ Thực Lục cũng viết như trên, chỉ khác một tiểu tiết thay từ “chọn” bằng
từ “lập” trong nhóm từ chọn am Tri Kiến. Sách Ô Châu Cận Lục đã nhắc đến địa
danh Tri Kiến 2 lần, lần một ở quyển 3, trang 49, “Tri Kiến lắm đàn bà góa”, lần
thứ hai ở trang 58 “Tri Kiến xưa nơi đặt huyện, Tả Bình nay tức Phủ Bình”. Cả
hai chi tiết ấy đều trích từ tựa đề “Tổng luận về phong tục” của sách đã dẫn đều
hàm ý chỉ Tri Kiến là thôn, trang.
Theo
bản gốc chữ Hán của sách Ô Châu Cận Lục thì danh xưng Tri Kiến lại viết hai dạng
thức khác nhau:
1.
知建
(Tri Kiến; Kiến (建)
nghĩa là dựng, lập, như trong nguyên văn: 知建多孀婦 (Tri Kiến đa sương phụ), trang 38b. Ở
đây, có nét lưu ý là “sách Ô Châu Cận Lục do Bùi Lương dịch, NXB Văn hóa Á
Châu, Sài Gòn, 1961” lại không ghi tình tiết đã dẫn ở phần dịch.
2.
知見
(đồng âm với Tri Kiến như đã dẫn bên trên). Kiến (見) là thấy. Tri Kiến là
thuật ngữ nhà Phật như trong thuật ngữ Chánh tri kiến, một chi của Bát chánh đạo.
Thế
mà bản Ô Châu Cận Lục, mang ký hiệu A.263 của thư viện Hán Nôm (3) lại có sửa
chữ 知建
thành 知見.
Chỉ sửa chữ Kiến 見
ra nghĩa “xây dựng” (kiến thiết) 建 bằng nét mờ nhỏ ở phía bên phải (tr.
45a).
Xét
về việc sửa chữa này, người viết tỏ ý đồng tình với quan điểm của lời giới thiệu
sách (từ tr. 1-8) của các dịch giả ở Viện Hán Nôm:“Điều này không thống nhất với
cách làm thận trọng, khoa học hơn của Nguyễn Hàm Chuẩn thể hiện qua phần “khảo
chính biên” là giữ nguyên chính văn đưa dị văn vào một phần riêng kèm theo ở cuối,
chứng tỏ chúng không phải những khảo chính của Nguyễn Hàm Chuẩn.
Nguyên
văn câu có dụng ý dùng thuật ngữ Tri Kiến (知見) của sách Ô Châu Cận Lục, mà ai đó đã sửa
chữ Kiến (見)
ra chữ 建
ở bên cạnh như sau: 知見古之縣建,
左平今即府平
(Tri Kiến cổ chi huyện Kiến, Tả Bình kim tức phủ Bình).
Dương
Văn An viết bài Tổng luận về phong tục của xứ Thuận Hóa theo thể loại phú, đó
là văn tự sự mang tính cách chính luận của văn học cổ điển mà cấu trúc của ngữ
văn, ngữ điệu theo lối tiểu đối, mạch văn gối hạc dựa vào lối văn biền ngẫu của
tả văn.
Sách
Ô Châu Cận Lục đã dẫn bên trên dịch câu chữ ấy là: “Tri Kiến xưa nơi đặt huyện,
Tả Bình nay tức phủ Bình”.
Thiền
sư Lê Mạnh Thát: “Tri Kiến là nơi dựng của huyện xưa”; trong sách Toàn Tập Trần
Nhân Tông, tác giả khẳng định: “Cho nên, am Tri Kiến là ngôi chùa của lỵ sở Tri
Kiến của Bố Chính” và lại chú thích: “Câu này có thể dịch: “Tri Kiến là huyện
Kiến xưa. Kiến do thế có thể là một tên gọi địa phương của Tri Kiến”.
1-
Tên của am Tri Kiến, thuật ngữ này có nghĩa là sự hiểu biết.
Điều
Ngự Giác Hoàng đã chỉ dạy cho đời sau biết rõ am Tri Kiến là cửa ngõ phía Nam
đi tìm đường mở nước và dựng nước không tốn một giọt máu đào.
Hai
châu Ô Lý vuông ngàn dặm,
Một
gái Huyền Trân của mấy mươi
(Thai
Xuyên)
Phên
giậu Thuận Hóa sau này là bàn đạp để cho các vương triều đời sau mở rộng giang
sơn đất nước đến tận đất mũi Cà Mau.
Việc
chọn am Tri Kiến cách phủ lỵ Lâm Bình trên 20km mà không chọn lỵ sở của châu Bố
Chính “làm nơi ở” trước khi đi thăm đất Chiêm Thành chỉ vì Thượng hoàng đã xuất
gia trở thànhThiền sư hoặc Sơn tăng, chưa bao giờ Ngài nhận mình là vua Phật,
là Điều Ngự Giác Hoàng. Kế sách mang theo đi du thuyết vua Chiêm đã được chuẩn
đi chuẩn lại trong những ngày Ngài ở am Tri Kiến.
2-
Tên một địa danh của huyện Tri Kiến ngày xưa mà năm 1301 còn hiện hữu và được
nhắc lại trong sách Ô Châu Cận Lục ra đời năm 1555. Ở thời điểm này huyện Tri
Kiến không còn nữa về cơ cấu tổ chức hành chính. Thế thì huyện Tri Kiến đã trở
thành huyện cũ (Tri Kiến cổ) như Ts. Lê Mạnh Thát đã dịch là “huyện xưa”.
Địa
danh Bố Chính có từ năm 1069 của nước Đại Việt và lại được ghi trong bản đồ của
Lý Thường Kiệt vẽ năm 1075, vua Lý Nhân Tông đổi châu Đại Lý làm châu Lâm Bình,
châu Ma Linh làm châu Minh Linh, còn châu Bố Chính thì giữ nguyên tên gọi từ
thuở ban đầu. Địa danh Bố Chính đã được Thánh Đăng Ngữ Lục nhắc đến và gọi là
trại Bố Chính. Trước khi châu Bố Chính
trở thành một phần lãnh thổ của nước Đại Việt (tức miền đất phía Bắc của tỉnh
Quảng Bình ngày nay), Bố Chính là đơn vị hành chính mà người Chiêm Thành được gọi
là trại, giống như trại Hoan, trại Ái hoặc trại trạng nguyên. Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, sđd, tr. 262 đã chú thích: Miền đất Quảng Bình bấy giờ cũng gọi là trại
Bố Chính. Trại là miền đất, vùng đất chưa được khai hóa ngang bằng so với các lộ.
Tháng 12 năm Canh Tuất, niên hiệu Thuận Thiên 1 (1010), nhà vua đổi 10 đạo làm
24 lộ. Năm sau, Tân Hợi (1011), vua Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã làm Nguyên
soái đi đánh Chiêm Thành ở trại Bố Chính*.
Lộ
không những là đơn vị quân đội mà còn là khu vực hành chính. Trại cũng thế, đều
hàm nghĩa theo phạm trù hành chính – quân đội: Tịnh vi dân, động vị quân ở miền
biên viễn. Trại ở đây không hẳn là doanh trại, lộ không phải là trang trại,
tách biệt trang trại ra hai từ đơn lẻ thì đó là đơn vị cấp hành chánh cơ sở
ngang bằng thôn, phường ở miền bán sơn địa, hoặc trên sông nước lênh đênh của
những phường chài hạ bạn…
Thời
Minh thuộc, năm Nhâm Ngọ (1402), giặc Ngô đổi châu Bố Chính (nguyên là trại Bố
Chính trước năm 1609) thành châu Chính Bình thuộc phủ Tân Bình. Châu Chính Bình
cai quản 3 huyện Chính Hòa, Cổ Đặng và Tùng Chất. Thời Minh thuộc đã đổi châu Địa
Lý thành châu Lâm Bình gồm 3 huyện Phúc Khang, Nha Nghi và Tri Kiến, châu Minh
Linh thành châu Nam Linh gồm 3 huyện Tả Bình, Đơn Duệ và Dạ Độ . Ấn tích về tên
gọi 9 huyện này còn để lại đậm nét trong sách Ô Châu Cận Lục. Người đọc dễ dàng
thấy được 7/9 địa danh, ngoại trừ 2 địa danh Chính Hòa và Cổ Đặng có nghi vấn nằm
ở bên kia ranh giới tỉnh Quảng Bình đã tìm ra địa danh Cổ Đặng trên đất tỉnh Hà
Tĩnh ngày nay mà nguyên xưa thuộc đất Châu Hoan tức Nghệ An sau này. Chính huyện
mới vào thời điểm năm 1419 hợp thành 3 châu lấy tên mới phủ Lâm Bình. Không rõ
theo hệ thống hành chính mới của quân xâm lược nhà Minh nâng Lâm Bình thành phủ
hồi nào. Quốc sử đã không thể tra cứu cặn kẽ vì thời chinh chiến ấy sử liệu thất
tán, theo gót quân Ngô tàn bạo xâm lược Đại Việt.
Năm
Kỷ Hợi, 1419 lại đem huyện Dạ Độ sáp nhập vào huyện Tả Bình. Vì thế mà phủ lỵ của
phủ Tân Bình đóng trên địa phận huyện Tả Bình như sách Ô Châu Cận Lục đã viết
“Tả Bình kim tức phủ Bình” (Đất huyện Tả Bình nay thuộc phủ Tân Bình). Huyện
Tri Kiến thuộc châu Lâm Bình được nhập vào huyện Nha Nghi; và huyện Phúc Khang
cũng nhập vào huyện Nha Nghi. Vì vậy năm 1553, tác giả sách Ô Châu Cận Lục viết
để hai năm sau ấn hành, đã gọi huyện Tri Kiến là: “Tri Kiến cổ chi huyện Kiến”
(danh xưng Tri Kiến xưa là nơi huyện Tri Kiến đặt huyện lỵ). Vào thời điểm năm
1553 thì huyện Tri Kiến đã bị xóa sổ bằng cách nhập vào huyện Nha Nghi năm 1469
đã là 151 năm tính ra ngày huyện Tri Kiến nhập vào huyện Nha Nghi cách đây đã
là 539 năm!
Nói
rút lại thì vế câu: “Tri Kiến cổ chi huyện Kiến, Tả Bình kim tức phủ Bình” (知見古之縣建,左平今即府平) được diễn
nghĩa lý cho rõ ràng như sau: “Danh xưng Tri Kiến xưa là nơi huyện Tri Kiến đặt
huyện lỵ, đất cũ huyện Tả Bình nay thuộc phủ Tân Bình”. Đây là một danh xưng địa
lý hành chính.
Tri
Kiến là tên riêng của am Tri Kiến, tên huyện, tên thôn, phường, trang (không phải
làng tức xã dưới triều Trần và Lê) cho nên không thấy ghi ở quyển 3 của sách Ô
Châu Cận Lục ở mục bản đồ ghi tên làng xã của hai huyện Lệ Thủy và Phúc Khang
mà năm 1419 đã nhập chung lại thành huyện Nha Nghi tức huyện Lệ Thủy và Kiến Lộc
(về sau là Khang Lộc) dưới triều Lê (năm 1469) tức châu Địa Lý (năm 1069): quả
thực là “Châu về hợp phố”.
Am
Tri Kiến tọa lạc trên đất thôn (phường, trang, giáp, hương…) Tri Kiến thuộc huyện
Tri Kiến mà huyện này đã trở thành đất của huyện Nha Nghi. Ở thời điểm sách Ô
Châu Cận Lục ra đời thì huyện Kiến không còn nữa. Như vậy, Tri Kiến là một địa
danh và đồng thời ở thời điểm đó, tại huyện Tri Kiến người ta đã có xây một cái
am, một ngôi chùa, và theo cách gọi của dân gian, người ta gọi luôn là am Tri
Kiến.
Huyện
Lệ Thủy có từ năm 1469 là do hai huyện Nha Nghi và Tri Kiến (có từ năm 1419),
nơi có sông Kiến Giang chảy qua, lỵ sở của huyện ở xã Cổ Liễu.
Đào
Duy Anh tác giả sách Việt Nam qua các triều đại lịch sử cho biết am Tri Kiến ở
huyện lỵ Lệ Thủy ngày nay. Huyện Lệ Thủy ngày trước có chùa Cổ Kính Thiên do
chúa Tiên Nguyễn Hoàng trùng kiến trên vị trí chùa cổ cùng tên vào năm Kỷ Dậu,
1609 thuộc phường Thuận Trạch (thuộc huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, năm Minh Mạng
thứ 7 đổi là chùa Hoằng Phúc, sau các chùa Thiên Mụ năm (1601), Sùng Hóa (năm
1607 ở Trà Kiệu Quảng Nam).
Chùa
Kính Thiên ở gần Trạm Bình Giang có trước năm 1553 khớp đúng với lời ghi của
sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Bình: “Sông Bình Giang: ở cách huyện lỵ
chừng 1 dặm về phía Tây, tục gọi là sông Trạm tức trạm Bình Giang xưa…”
Tháng
2 năm 2007, Phật lịch 2550, Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 27 ra ngày 15/2/2007
có bài viết “Chùa Hoằng Phúc, ngôi chùa cổ còn lại trên đất Quảng Bình” của
Nguyễn Ngọc Trai, từ tr.14 đến 16 đã khẳng định rõ ràng địa chỉ của ngôi chùa cổ
Kính Thiên tức Hoằng Phúc ngày nay: “Có lẽ ít ai biết rằng, tại khu dân cư Mỹ
Thủy, cách trung tâm huyện Lệ Thủy 4km, cách quốc lộ 1A 3km, từ chợ Mai đi vào,
hiện còn lưu dấu một ngôi chùa cổ: chùa Hoằng Phúc, một trong số ít chùa cổ của
vùng đất Thuận Hóa xưa…”
Tưởng
niệm vua Trần Nhân Tông nhân ngày húy kỵ thứ 700, đồng thời kỷ niệm 707 năm ghi
dấu ngày Thượng hoàng vân du đất Chiêm Thành với tư cách là bậc Thiền Sư, đàm đạo
với vua Chiêm là Chế Mân trong tình giao hảo tốt lành để cùng chung lo việc giữ
nước và hoằng hóa độ sanh. Ngài đã đến châu Bố Chính phía Bắc tỉnh Quảng Bình
ngày nay rồi chọn am Tri Kiến ở châu Địa lý, nơi danh lam thắng địa của xứ Thuận
Hóa để ở trước khi vào thành Đồ Bàn của nước bạn láng giềng thân thiện.
Từ
mốc thời gian lịch sử ấy, thì phước địa Tri Kiến thuộc huyện Tri Kiến xưa ấy,
mà nay đã 707 năm rồi. Điều đó, đã nói lên giá trị lịch sử của huyện Tri Kiến,
am Tri Kiến, nơi Thượng hoàng Trần Nhân Tông là Điều Ngự Giác Hoàng đã xuất
phát du hòa phương nam lập nên một thế “hợp tung” để sau này góp phần chống lại
ý đồ xâm lược của Nguyên Mông sau khi chúng đã thất bại tả tơi ba lần đối đầu với
quân dân nước Đại Việt dưới thời các vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông.
Bài
viết này chỉ gợi mở làm lóe sáng lên hình ảnh cảnh quang sáng rạng của một am
Tri Kiến mà người dân phủ Tân Bình, xứ Thuận Hóa trong quá khứ đã xem đây là một
di tích lịch sử gắn liền với niềm tự hào trong quá trình mở nước của dân tộc
ta. Chúng tôi đã và đang gia công tìm hiểu để bổ sung vào lịch sử Phật giáo Việt
Nam và cũng là lịch sử Phật giáo xứ Thuận Hóa.
Nhận xét
Đăng nhận xét