http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/23754
Xây dựng thư viện số hiện nay không
chỉ là nhu cầu mà còn là xu hướng tất yếu của các thư viện. Với khả năng lưu
trữ thông tin dường như vô hạn, tác động nhanh, mạnh tới mọi người dùng ở mọi
lúc, mọi nơi, vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam đang trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết. Tuy nhiên, sự ràng buộc với luật quyền tác giả (bản quyền) khiến
các thư viện ở Việt Nam đứng trước những thách thức không nhỏ trong quá trình
xây dựng và vận hành thư viện số. Bài viết đề cập tới mối quan hệ giữa sự hình
thành thư viện số và những quy định của pháp luật về bản quyền hiện nay, trên
cơ sở đó tìm kiếm các giải pháp cho việc xây dựng và phát triển thư viện số.
THƯ VIỆN SỐ VÀ XÂY DỰNG BỘ SƯU TẬP
SỐ
Khái niệm
thư viện số hiện nay không còn quá mới ở Việt Nam tuy nhiên khái niệm này tồn
tại nhiều cách hiểu khác nhau:
- Thư viện số /thư viện điện tử
là loại hình thư viện đã tin học hóa toàn bộ hoặc một số
dịch vụ thư viện, là nơi người sử dụng có thể tới tra cứu và sử dụng các dịch
vụ thường làm như với một thư viện truyền thống nhưng đã được tin học hóa.
Nguồn lực của thư viện số theo cách hiểu này bao gồm tài liệu giấy và tài liệu
số hóa.
- Thư viện số là thư viện điện
tử cao cấp trong đó toàn bộ tài liệu đã được số hóa và quản lý bằng một
phần mềm chuyên nghiệp giúp người sử dụng dễ dàng truy cập, tìm kiếm, xem
nội dung toàn văn từ xa thông qua hệ thống mạng thông tin và các phương tiện
truyền thông. Một thư viện số hoàn chỉnh phải thực hiện được tất cả các dịch vụ
cơ bản của thư viện truyền thống kết hợp với việc ứng dụng các lợi thế của công
nghệ thông tin trong việc lưu trữ, tìm và phổ biến nội dung thông tin.
- Thư viện số là tập hợp của
các thiết bị tính toán, lưu trữ và truyền thông số với nội dung và phần mềm để
tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ của thư viện truyền thống.
- Thư viện số là môi trường
tập hợp các bộ sưu tập số, dịch vụ và con người để hỗ trợ cho chu trình
hoàn chỉnh của việc sang tạo, phổ biến sử dụng và bảo quản dữ liệu, thông tin
và tri thức. Thư viện số có hàm ý về một môi trường mạng cung cấp nôi dung.
- Thư viện số được xem như là
các hệ thống cung cấp cho cộng đồng người sử dụng cách tiếp cận logic tới một
kho tin và tri thức lớn, có tổ chức.
- Thư viện số là môi trường tập
hợp các bộ sưu tập theo chủ đề (bộ sưu tập số được hiểu là tập hợp có tổ chức
nhiều tài liệu đã được số hóa dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, hình
ảnh, audio, video….về một chủ đề. Mỗi loại hình tài liệu trong bộ sưu tập số có
sự khác nhau về cách thể hiện nhưng có giao diện đồng nhất). Nguồn thông tin
của thư viện số có thể nằm ngay trong thư viện hoặc bên ngoài thư viện.
Tuy có
nhiều ý kiến khác nhau về thư viện số, song có thể nhận dạng thư viện số qua
những đặc điểm sau:
(1)
Vốn tài liệu được số hóa
(2)
Sử dụng phần mềm quản lý và khai thác tài liệu số
(3)
Cung cấp các dịch vụ thư viện hiện đại ở mọi lúc, mọi nơi
Ưu điểm
của thư viện số so với thư viện truyền thống là bổ sung vào sưu tập nhanh hơn,
kiểm soát chất lượng tốt hơn, chức năng tìm kiếm được cải thiện đáng kể, truy
nhập nhanh hơn tới thông tin tìm được, người sử dụng “tự do hơn”, chủ động hơn
trong việc tìm kiếm và thu thập thông tin ơt mọi lúc, mọi nơi.
Từ
các khái niệm về thư viện số kể trên có thể thấy một trong những yếu tố
cơ bản của thư viện số là các bộ sưu tập số (có tài liệu sử dụng là tổ hợp cơ
sở dữ liệu) bên cạnh các yếu tố khác như cấu trúc, hạ tầng kỹ thuật, bảo quản
khai thác…Vấn đề trọng tâm trong xây dựng thư viện số đó là tạo lập và phát
triển các bộ sưu tập số đặc biệt là các bộ sưu tập “nội sinh” trên cơ sở số hóa
tài liệu của chính cơ quan thông tin thư viện. Hiện nay để xây dựng các bộ sưu
tập số các thư viện thường tiến hành theo các cách sau:
- Tự số hóa nguồn tài liệu
giấy của thư viện. Tức là chuyển tài liệu hiện có sang dạng sốbằng phương pháp
quét hoặc nhập thông tin.
- Bổ sung nguồn tin điện tử thông
qua việc mua, trao đổi tài liệu điện tử đang được xuất bản hoặc lưu hành.
- Xây dựng các liên kết
(tạo khả năng truy cập) đến các nguồn tài liệu trên Internet đặc biệt là
nguồn của các cơ quan có cùng diện chuyên đề bao quát.
Mỗi phương
pháp tạo lập bộ sưu tập số đều có ưu và nhược điểm riêng tuy nhiên vấn đề khiến
những nhà quản lý hiện nay quan tâm trong việc tạo lập bộ sưu tập số không phải
là cách thức, phương pháp tạo lập mà là giải pháp để việc thu thập, tạo lập,
khai thác các bộ sưu tập số không bị vi phạm luật quyền tác giả.
MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ BẢN
QUYỀN LIÊN QUAN TỚI HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN
Bản
quyền(quyền tác giả, tác quyền, copyright) là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền
lợi tinh thần và quyền kinh tế của tác giả đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra và người sở hữu tác phẩm. Hệ thống pháp luật về bản quyền hiện nay có
thể chia thành các loại sau:
- Các công ước quốc tế về bản
quyền và quyền liên quan mà Việt Nam là thành viên
- Các hiệp định (đa
phương và song phương) mà Việt Nam tham gia ký kết
- Hệ thống văn bản pháp
luật về bản quyền (bao gồm luật, nghị định, thông tư…).
Về các
công ước quốc tế về bản quyền và quyền liên quan hiện nay Việt Nam tham gia có
thể kể tới công ước Berne (tên gọi tắt của công ước về bảo hộ các tác phẩm khoa
học, văn học, nghệ thuật).Trong công ước có 3 nguyên tắc được đưa ra là nguyên
tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc bảo hộ tự động và nguyên tắc bảo hộ độc lập.
Đối tượng bảo hộ trong công ước là các tác phẩm khoa học, văn học nghệ thuật
(là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, khoa học, nghệ thuật) được biểu
diễn dưới bất kỳ hình thức nào, theo bất kỳ phương thức nào,có thể là
sách, tập in nhỏ, các ấn phẩm khác, các bài giảng, các bài phát biểu, bài
thuyết trình và các tác phẩm cùng loại, kịch bản, nhạc kịch, các tác phẩm hoạt
cảnh, kịch câm, các bản nhạc có lời hoặc không lời, các tác phẩm điện ảnh và
các tác phẩm được diễn tả bằng phương pháp tương tự điện ảnh, tác phẩm hội họa,
kiến trúc, chạm trổ điêu khắc, tranh khắc bản, ảnh và các tác phẩm được thể
hiện bằng phương pháp tương tự như nhiếp ảnh, tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, các
tác phẩm minh họa, địa đồ, bản vè thiết kế, bản phác họa và các tác phẩm ba
chiều liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc và khoa học. Đối tượng bảo hộ
công ước quy định còn bao gồm các tác phẩm dịch thuật, cải biên, phóng tác, cải
biên âm nhạc và các hình thức chuyển thể khác từ một tác phẩm văn học hoặc tác
phẩm nghệ thuật cũng được bảo hộ như các tác phẩm gốc và không được làm phương
hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc. Thời gian bảo hộ đối với các tác
phẩm này được tính theo hai cách: theo vòng đời tác giả : áp dụng đối với các
tác phẩm có tác giả cá nhân hoặc đồng tác giả là 50 năm sau khi tác giả/ tác
giả cuối cùng của đồng tác giả mất và theo thời điểm công bố : áp dụng đối với
tác phẩm không xác định tác giả cụ thể như: tác giả tập thể, tác phẩm khuyết
danh, sử dụng bút danh, tác phẩm di cảo,... là 50 năm kể ừ khi tác phẩm được
phổ biến tới công chúng. Các quyền được bảo hộ trong công ước Berne có thể kể
đến như: quyền tinh thần, quyền dịch thuật, quyền về sao chép, quyền biểu diễn,
quyền phát sóng, truyền thông, quyền làm tác phẩm phái sinh....
Về hiệp định, có thể kể đến hiệp định TRIPs được ký
kết ngày 15 tháng 12 năm 1993 có giá trị ràng buộc đối với tất cả các thành
viên của WTO. Trong hiệp định có đề cập chi tiết đến các quyền sở hữu trí tuệ
khác nhau và cách thức bảo hộ.phần quyền tác giả có quy định các thành viên của
WTO phải tuân thủ công ước Berne từ điều 1 đến điều 21 và phụ lục kèm theo. Các
tác phẩm được bảo hộ 50 năm sau khi tác giả mất.Trong hiệp định cũng có những
điều khoản nhằm thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở những quốc gia tham gia ký kết.
Về hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam có
thể kể đến là Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Luật được Quốc hội nước ta thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006 gồm 6 phần, 18
chương và 222 điều. trong đó phần thứ hai: quyền tác giả và quyền liên quan quy
định về điều kiện bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, nội dung, giới hạn
quyền, thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, chủ sở hữu quyền tác
giả, quyền liên quan, chuyển giao quyền tác giả và quyền liên quan, chứng nhận
đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, tổ chức đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền
tác giả và quyền liên quan. Về nghị định có thể kể đến nghị định 100/ 2006/ NĐ
– CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật dân sự,
luật SHTT về quyền tác giả và quyền liên quan. Nội dung của luật SHTT và nghị
định 100/ 2006/ NĐ – CP đề cập toàn diện và chi tiết về khái niệm quyền tác
giả, quyền liên quan, nội dung, đặc điểm của quyền, các khái niệm liên quan và
việc bảo hộ đối với từng đối tượng cụ thể.
Thông qua hệ thống văn bản pháp luật về quyền tác giả
và quyền liên quan hiện nay ta nhận thấy: quyền tác giả và quyền liên quan là
quyền nghiễm nhiên, được bảo hộ tự động đối với mọi tác phẩm có tác giả kể từ
lúc được hình thành trừ việc sử dụng hợp lý tác phẩm được quy định tại một số
điều trong công ước và luật SHTT. Trong đó cũng đưa ra những điều kiện đối với
tác phẩm được bảo hộ đó là tác phẩm được định hình và có tính nguyên gốc.
CÁC VẤN ĐỀ
BẢN QUYỀN TRONG SỐ HÓA TÀI LIỆU
Vấn đề bản quyền trong số hóa tài liệu cũng như trong
môi trường số là rất phức tạp. Các điều ước quốc tế và hệ thống pháp luật quốc
gia đã tiếp cận và điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh trong môi trường số,
tuy nhiên đó vấn là vấn đề không chỉ của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, cơ
quan quản lý nhà nước cũng như những người khai thác, sử dụng tác phẩm để số
hóa một cách hợp pháp. Thư viện số với tư cách là chủ thể của quá trình số hóa
tài liệu gặp phải nhiều câu hỏi về bản quyền khi tiến hành số hóa tài liệu từ
góc độ pháp luật.Nói tới số hóa tài liệu có thể hiểu đơn giản là việc sử dụng
các thiết bị công nghệ số để chuyển đổi hình thức tài liệu dưới dạng truyền
thống sang dạng số để thông tin có thể được xử lý, lưu trữ, và truyền phát qua
các thiết bị số và trên mạng. Để thực hiện việc số hóa tài liệu, trước tiên cần
tiến hành thu thập và phân loại tài liệu. Thu thập và phân loại tài liệu không
phải là hành vi sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan, tuy nhiên mục đích
của thu thập và phân loại tài liệu là nhằm số hóa tài liệu lại có thể là hành
vi sử dụng quyền theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy để bảo đảm quá
trình số hóa được tiến hành hợp pháp, việc xác định tài liệu dự kiến số hóa có
phải là đối tượng của quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định của pháp
luật hay không rất quan trọng.
Đầu vào của quá trình số hóa tài liệu là tài
liệu do đó có thể tồn tại ở bất kỳ phương tiện, hình thức nào chứa đựng
nội dung thông tin (hình thức hiện hữu truyền thống như giấy, hoặc dạng số).
Trong khi đó đối tượng của quyền tác giả bao gồm “tác phẩm văn học nghệ thuật
khoa học” và đối tượng của quyền liên quan là “các cuộc biểu diễn, bản ghi âm
ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hóa” (điều 3 luật SHTT) được thể hiện bằng bất kỳ phương tiện nào (điều 4 luật
SHTT). Như vậy khi nào tài liệu đầu vào của quá trình số hóa chứa đựng sản phẩm
mang tính sang tạo của con người đã được định hình thì mới là đối tượng bảo hộ
bản quyền.
Người sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan là người
sáng tạo ra tác phẩm (tác giả) hoặc người được tác giả chuyển nhượng quyền
không phải người sở hữu bản gốc hay bản sao tác phẩm cụ thể. Việc xác định tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan sẽ chỉ rõ kế hoạch xin cấp phép
sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan trong triển khai số hóa tài liệu.
Đối với các đối tượng không thuộc đối tượng bảo hộ quyền
tác giả (điều 15 luật SHTT) có thể số hóa không cần đặt ra vấn đề xin phép sử
dụng quyền tác giả và quyền liên quan tuy nhiên vẫn phải tôn trọng quyền nhân
thân vẫn phải được tôn trọng tuyệt đối. Những đối tượng đó là:
Tin tức
thời sự chỉ đưa tin thuần túy
Văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch
chính thức của văn bản đó
Quy trình
hệ thống phương pháp hoạt động khái niệm nguyên lý số liệu
(điều 15
luật SHTT)
Các tác phẩm hết thời hạn bảo hộ theo luật định (tác
phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng là 25 năm tính từ năm công bố; tác
phẩm có tác giả là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả mất; tác
phẩm đồng tác giả là 50 năm sau khi đồng tác giả cuối cùng mất; cuộc biểu diễn
được định hình, bản ghi âm, ghi hình được công bố hoặc định hình nếu chưa công
bố, chương trình phát sóng được thực hiện là 50 năm từ khi công bố hoặc định
hình, thực hiện).
Các tác phẩm hoặc đối tượng bảo hộ quyền liên quan mà
tác giả, chủ sở hữu quyền tuyên bố từ bỏ quyền tác giả và quyền liên quan
Các tài
liệu được bảo hộ bản quyền trước khi sử dụng cần xin cấp phép sử dụng quyền tác
giả và thực hiện nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả theo thỏa thuận. Việc xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên
quan khá đơn giản như liên hệ trực tiếp với tác giả và chủ sở hữu quyền tác
giả, hoặc thông qua các tổ chức quản lý tập thể nếu tác giả, chủ sở hữu quyền
đã ủy thác quyền cho các tổ chức này quản lý (điều 56 luật SHTT).Ở Việt Nam hiện
có các tổ chức quản lý tập thể là Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt
Nam, trung tâm quyền tác giả văn học Việt Nam, hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt
Nam, hiệp hội quyền sao chép Việt Nam.
Ngoài ra
nếu hành vi số hóa tài liệu thuộc các trường hợp mà luật SHTT đã quy định tại
điều 25 và điều 33 thì người số hóa không cần xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao như:
Tự sao chép một bản nhằm mục đích
nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân
Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong
thư viện với mục đích nghiên cứu
Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu
diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy
Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo
hình kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng
nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó
Cần chú ý
ngoại lệ nêu trên chỉ áp dụng đối với tác phẩm đã đươc công bố, không thể
áp dụng cho các tác phẩm chưa công bố và phải đảm bảo tuân thủ quy tắc phép thử
ba bước.
Như vậy
bản thân việc số hóa tài liệu không vi phạm bản quyền, việc vi phạm hay không
phụ thuộc vào mục đích sử dụng. Chẳng hạn nếu dùng với mục đích thương mại ảnh
hưởng tới lợi ích kinh tế của người nắm giữ bản quyền là vi phạm hoặc phổ biến
rộng rãi ra công chúng ngoài phạm vi của thư viện là vi phạm. Như vậy cán bộ
thư viện và lãnh đạo các cơ quan thông tin thư viện cần nắm rõ trong quá trình
xây dựng thư viện số đặc biệt là quá trình số hóa tài liệu những tác phẩm nào,
hành vi nào vi phạm bản quyền tác giả
Nhận xét
Đăng nhận xét