Trên
con đường tu tập, kể cả pháp hành Tôn giáo cũng như pháp hành tâm linh,
"sám hối" là cách cơ bản giải quyết những sai phạm đã qua và ngăn ngừa
sai quấy phạm phải sắp tới.Đôi khi, có người chọn cách "sám hối" làm
pháp hành trì thường nhật để phát khởi lòng từ và thúc liễm thân tâm thường nhật.
Trong
đời sống, không ai mà không từng phạm phải sai lầm, có những sai lầm nhẹ có thể
khắc phục, sửa sai, có những sai lầm thuộc lãnh vực tư tưởng, quan điểm, đức
tin, do đứng một góc độ riêng cộng thêm biên kiến, thiên kiến dẫn đến bảo thủ,
sai lầm mà không biết. Trường hợp nầy thường xẩy đến trong một số người có óc
suy luận vững nhưng chỉ ở một góc độ biên kiến, nhiệt tâm trong một phạm vi
chuyên môn, thỏa mãn trong một chủ thuyết, học thuyết, giáo thuyết. Nơi đây chỉ
xét trong lĩnh vực tư tưởng, ngoài ra, những sai lầm mang tính xã hội nó có tính nhất thời, không
đáng ngại.
Làm
sao để thức tỉnh biết là mình đang sai lầm theo một quan điểm, một giáo thuyết,
một chủ nghĩa...?
Khó
mà xác quyết khi chính nhân thân phải thâm nhập một cách khách quan vào những
lĩnh vực khác với lĩnh vực của mình đang say mê.Dùng trí tuệ phán đoán, vì vậy,
nhà Phật đề cao trí tuệ mà không nhắc đến cảm tính.Thường, chúng ta sống, làm
việc, nhận thức theo cảm tính nhiều hơn
lý trí.
Sự
sai làm về chính trị, đưa xã hội vào con
đường khủng hoảng, bế tắt. Sự sai lầm về quan điểm giáo dục, nhiều thế hệ phải
chịu hậu quả khó khăn, nhưng một giáo thuyết sai lầm thì chính nhân thân người
chọn lựa cũng đã có sẵn một hậu quả khó tránh, huống nữa đem quan điểm sai lầm,
biên kiến để dẫn dắt đồ chúng, miệng hố tội trọng đang kề bên sinh thân, liền
sau đó, thân xác còn mang căn bệnh tương ứng với những lời dạy dỗ thiếu chính
đáng. Bệnh tật là quả của nhân quá khứ, không thể nhìn bệnh lý mà xác quyết là
hậu quả của việc sai lầm trong việc truyền bá giáo lý hay pháp hành; nhưng đôi
khi, thay vì quả báo quá khứ chưa trổ, duyên hiện hành hỗ trợ thì quả sớm phát
sanh. Nhân quả trùng trùng duyên khởi khó mà phân minh. Có những bệnh nan ý có
thể khỏi hẳn mà không ngờ, do bệnh nhân đã thay đổi cách sống, hành xử thiện
duyên quá nhiều và tư tưởng trong sáng, hướng thiện, lòng từ thông qua hành động trợ giúp chúng sanh. Cũng
không thiếu bệnh nhân, thay vì một thời gian lâu mới chết,lại đột tử không ngờ.Những
bệnh như thế, có thể nhân quá khứ thuộc loại vô ký hoặc tác ý vô tâm.
Theo nhà Phật, "Nhất thiết duy tâm tạo".
tướng học cũng từng nói: - tướng tự tâm sinh, tướng tùng tâm diệt. Một tâm hồn
đẹp, trong sáng, hiền lành đều có một gương mặt dễ nhìn, người độc ác nham hiểm,
hiện tướng đáng sợ. Chính những nguyên nhân từ tâm niệm mà có câu: "tội từ tâm khởi do tâm
sám". Nhưng mấy ai ý thức bệnh mình đang thọ lãnh do hậu quả của tư tưởng
nào đó có sức mạnh tác động để hạt giống phát triển nhanh.Cuộc sống luôn gặp trắc
trở, hoạn nạn cũng là hiện báo của nhân quá khứ, có người bảo do thiếu phước,
điều nầy khó xác định, vì có phước mới được thân người, đã có phước mới được
thân gười, tại sao gặp tai họa bảo do thiếu phước? Phước có nhiều loại, thì
nghiệp cũng có nhiều dạng; trong phước có họa, trong họa có phước, trùng trùng
duyên khởi, khó mà có một thống kê tổng quát để kết luận một hiện tượng Trong cộng
nghiệp vẫn có biệt nghiệp. Xã hội ngày nay lan nhanh mầm mống bệnh ung thư,
nhưng không phải tất cả đều chịu chung số phận như nhau. có người đau đớn quằn
quại trước khi chết, cũng có người ra đi êm nhẹ, và một số ít người được khỏi hẳn
hoặc virus không phát tác.Cũng có một tín đồ Phật giáo, khi phát hiện ung thư,
không thiết đến thuốc men, tình nguyện ăn chay, sống đời lương thiện, bố thí
phóng sanh, tâm hồn an lạc thanh thản, gốc ung thư tự nhiên tiêu hủy.
Cũng
có người theo sự hướng dẫn của tôn giáo phải ăn năn, sám hối, thành khẩn ngăn
chừa thói hư tật xấu, giúp đỡ tha nhân. Mỗi tôn giáo có một phương cách sám hối
khác nhau, nhưng mục đích giúp người có tội cảm thấy nhẹ nhàn, trút gánh nặng
khỏi nội tâm, hướng đến việc thánh thiện để không còn tái phạm. Đây không chỉ
là thủ tục thuộc lĩnh vực tôn giáo mà là điều căn bản cho những tín giả có một
căn cơ cần đến tha lực. Ta tạm duyệt qua một số nghi thức của vài tôn giáo về
cách sám hối, ăn năn như:
Mỗi
tôn giáo đều có một phương pháp sám hối tội chướng quá khứ và ngăn ngừa tội lỗi
trong hiện tại và tương lai, ví dụ Kito giáo quan niệm về việc xưng tội, mặc dù
tội Tổ tông đã được xóa trong lúc rửa tội, còn lại,vì trong cuộc sống không ai
không phạm tội, vì thế, việc xưng tội không chỉ đơn giản trình bày tội lỗi của
mình mong cha cố lắng nghe và tha thứ; thật ra Linh mục giải tội không có quyền
xóa tội mà chỉ là người lắng nghe và hướng dẫn hối nhân sống đúng luật giáo hội
các điều răn của Chúa. Vì vậy, khi xưng tội, muốn được tha thứ, hối nhân phải:
1.
Xưng tội - Xét mình: Phải xét các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những
điều thiếu sót, căn cứ vào 10 điều răn của Thiên Chúa:
thứ
nhât: thờ phượng một Đưc Chúa Trời và
kính mến Người trên hêt mọi sự.
thứ
hai : chớ kêu tên Đưc Chúa Trời vô cớ.
thứ
ba : giữ ngày Chúa Nhật.
thứ
bốn : thảo kính cha mẹ.
thứ
năm : chớ giêt người.
thứ
sáu : chớ làm sự dâm dục.
thứ
bảy : chớ lấy của người.
thứ
tám : chớ làm chứng dối.
thứ
chín : chớ muốn vợ chồng người.
thứ
mười: chớ tham của người.
Và
6 điều răn của Hội Thánh:
thứ
nhât: dự Lễ ngày Chúa nhật cùng các
ngày lễ buộc.
thứ
hai : chớ làm việc xác ngày Chúa nhật
cùng các ngày lễ buộc.
thứ
ba : xưng tội trong một năm it là một
lần.
thứ
bốn : chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu
trong mùa Phục Sinh.
thứ
năm : giữ chay những ngày Hội thánh buộc.
thứ
sáu : kiêng thịt ngày Thứ sáu, cùng những
ngày Hội Thánh dạy.
2. Ăn năn tội:
Sau khi xét các tội đã phạm, hối nhân phải có lòng ăn năn, chê ghét các
tội, vì tội xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành.
3.
Quyết chí chừa tội: Đã ăn năn, hối nhân
còn phải thật lòng xa lánh tội, không phạm các tội đã phạm và các tội hối nhân
chưa phạm bao giờ, nghĩa là, không như cái hiều của một số người bảo là: - cứ
làm tội rồi đến xưng tội với cha là
xong, tiếp tục phạm tội khác...
Phát
lồ còn gọi là phát lộ, nghĩa là trình bày rõ tội lỗi mình đã phạm, không dám
che giấu.Dứt tội cũ, không tạo tội mới.Trình bày với ai? đối thú trước chư Tăng
hoặc với người mà mình tôn kính, lúc lâm chung, có thể phát lộ với người thân cận
mình để tâm hồn nhẹ nhàng cho thần thức ra đi.
Sám
hối - theo định nghĩa của tự điển Phật Quang là: "ăn năn tội lỗi, xin được
tha thứ". "Sám" nói cho đủ là Sám ma, có nghĩa là "nhẫn",
tức cầu xin người khác tha tội. "Hối" là ăn năn hối hận tội lỗi mình đã gây ra trong hiện tại cũng như
trong quá khứ, nay đối trước Phật, Bồ Tát, sư trưởng, đại chúng nói ra hết,
không giấu diếm, cầu mong đạt mục đích diệt tội.
Về
phương pháp và tính chất sám hối được chia nhiều loại:
1.hai
loại sám hối: - chế giáo sám và hóa giáo sám.
2.
ba loại sám là: -tác pháp sám hối - thủ tướng sám hối - vô sinh sám hối.
3.năm
loại sám là: - không chê bai Tam bảo cho đến tu lục niệm - hiếu dưỡng cha mẹ,
cung kính sư trưởng - dùng chính pháp trị nước , khiến cho lòng người chân thật ngay thẳng - vào 6 ngày trai không được giết
hại - tin nhân quả, tin đạo nhất thực, tin Phật bất diệt.
4.
Lục căn sám hối: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Ngoài
ra trong Vãng sanh lễ tán có nêu 3 pháp sám hối Quảng, yếu, lược: -yếu sám hối
- quảng sám hối - lược sám hối.
Có
người chưa hiểu tầm quan trọng việc tự sám, cho rằng, có tội khỏi cần xưng tội với ai, không cần đối thú phát lồ,
không ai có quyền tha tội của mình, nhất
là tội đó không phạm đối với người mình xưng. Nếu tự sám rồi ỷ lại tiếp tục sai
phạm thì chả ai biết....
Ăn
năn. theo tư diển tiếng Việt, ăn năn là cảm thấy đau xót, day dứt trong lòng về
lỗi lầm của mình.
Tóm
lại, rất nhiều cách tự hối lỗi, tự thống hối những sai phạm từ tâm niệm đến
hành động, nhưng người thường không thấy mức độ trầm trọng của việc sai phạm nên
tiếp tục hành xử theo bản năng. Là những Tôn giáo có khuynh hướng tâm linh, việc
cải hoán tâm thức và chuyển hóa nghiệp thức là điều rất quan trọng.
Ví
dụ, ai đó làm mình bực tức, hoặc nhục mạ, hoặc
vô tình xúc phạm, ta không dám bộc lộ sự bất mãn, trong tâm muốn cho kẻ
đó gặp tai nạn, gặp rắc rối...vô tình tự ta gieo hạt giống ác trong tâm thức. Hạt
giống bất thiện là hạt giống có sẵn trong tâm nhiều người, chưa có dịp bộc lộ,
lâu ngày chày tháng cứ tiếp tục gieo thêm ác ý, có ngày sẽ phát ra hành động, lời
nói, mà mình không kiểm soát được, sẽ biến mình thành kẻ ác.Tội không chỉ do
hành động mà còn do ý tưởng và từ lời nói.Cũng thế, mình đứng góc độ bảo thủ,
chỉ thấy pháp hành của mình là đúng, vội phê phán pháp khác là sai, chắc gì
nghĩ như thế đã không phạm phải lỗi lầm sai lạc?
Chư
Tổ của Bắc truyền, rất giữ kẽ trong tứ
oai nghi, luôn thúc liễm thân tâm từng giờ khắc. Cố Hòa Thượng T. Trí Thủ, mỗi
khuya đều lạy sám hối. Một số đạo trang được hướng dẫn lạy Hồng danh; nhưng
không khai trí cho đạo chúng ý nghĩa lạy Hồng danh, đôi khi biến thành hành động
trả bài vô nghĩa.
Ngày
xưa, Tổ Sư Thế Thân sinh ra trong một
gia đình Bà-la-môn, Sư học giáo lí Tiểu thừa
và soạn bộ A-tì-đạt-ma-câu-xá luận. Sau đó, Sư đi du phương và danh tiếng
của Sư là một nhà biện luận xuất chúng vang dội. Khi gặp Vô Trước được người
anh giảng giải giáo lí Đại thừa, Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bắt đầu say mê nghiên
cứu Đại thừa và viết luận về kinh điển hệ Đại. Sau khi nghe hết các bộ kinh và
luận Đại Thừa đó, Thế Thân nhận ra Phật Giáo Đại Thừa thật ra rất thâm sâu cả về
lý thuyết lẫn thực hành, chứ không phải chỉ lý thuyết suông như ngài hằng nghĩ
trước kia. Hối hận vì xưa kia đã phỉ báng Đại Thừa, ngài muốn cắt lưỡi tự tử.
Các đệ tử của Vô Trước vội khuyên can và khẩn thiết yêu cầu ngài tới thăm Vô
Trước Thế Thân trở về Bá Lộ Sa gặp Vô Trước và trong cuộc đàm luận với người
anh về Phật Giáo Đại Thừa, ngài đã nắm được các yếu chỉ của giáo lý Đại Thừa.
Vô Trước khuyên Thế Thân không nên tự tử mà nên dùng tài uyên bác của mình để
quảng bá giáo lý Đại Thừa hầu chuộc lại lỗi lầm phỉ báng Đại Thừa khi xưa. Từ
đó về sau, Thế Thân chỉ chuyên tu trì, nghiên cứu, hoằng dương và trước tác các
luận giải thuộc Đại Thừa mà thôi. Ngài trước tác trên 500 luận giải Đại Thừa,
trong đó có các luận giải sau:
1.
Chú giải về Trung Biên Phân Biệt Luận
2.
Duy Thức Nhị Thập Tụng và chú giải
3.
Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận
4.
Duy Thức Tam Thập Tụng
5.
Tam Tự Tánh
6.
Phật Tánh Luận.
Như
vậy, hoán cải, sám hốii, ăn năn có nhiều cách, hoặc tự thân làm điều tốt, hoặc
tự tâm thống hối ăn năn, hoặc giúp mọi người hướng về nẽo thiện.,Hoặc thiền định
chuyển hóa nghiệp thức...
Tôn
giáo là nền giáo dục chuyển hóa cái ác của
con người thành hạt giống thánh thiện, Mỗi tôn giáo có một phương cách hướng dẫn
hóa giải khác nhau, ngoại trừ Tôn giáo không hướng đến tâm linh, đó là những đức
tin mang tính xã hội, mang tính chính trị thì tập nhiễm nhiều tính ác mang tính
cạnh tranh, oán thù chất chồng mà họ cho đó là thành quả, biến tín đồ thành những
chiến binh thành đạt cho mục đích.
Trên
thế giới có nhiều Tôn giáo, những Tôn giáo được biết nhiều là Phật giáo, Ki tô
giáo, Tin Lành giáo, Hòa Hảo, Cao Đài,..là những Tôn giáo có khuynh hướng hướng
thiện, mỗi Tôn giáo có mức độ thiên hướng tâm linh khác nhau. Tôn giáo Thần học
thì hướng về đấng sáng tạo. Tôn giáo nhân bản thì hướng nội, hải đảo tự thân là
đich để chuyển hóa nghiệp thức, thăng hoa tâm thức. Ngoài ra, một số trường
phái không nhất thiết là Tôn giáo, như Yoga, Lão giáo và các hệ phái tại Ấn độ
dùng Thiền định để nâng tâm thức vào cỏi siêu thức.Trong quá trình chuyển hóa
tâm thức, tất cả những chủng tử Thiện và bất Thiện đều loại khỏi tâm thức. Tập
trung năng lượng dưỡng trí khai huệ
thoát khỏi càn khôn vũ trụ; có nghĩa dùng chấn động lực nội thể để hòa hợp với
năng lượng dương của chấn động lực vũ trụ siêu thoát khỏi âm lực của bao phủ
chung quanh cuộc sống.
Tóm
lại, muốn thoát khỏi nghiệp lực quá khứ và hiện tại, cần chọn pháp hành để sám
hối, ăn năn, phát lồ..như trút bỏ gánh nặng trên đạo lộ tâm linh giải thoát.Sau
đó mới chọn một pháp môn thích hợp căn cơ để tu tập.
Nhận xét
Đăng nhận xét