Con
người là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Việc đầu
tư cho sự phát triển của con người không chỉ vì mục tiêu nhân văn mà còn là sự
đầu tư có lợi nhất cho sự phát triển bền vững. Đó là những kết luận khá thống
nhất trong kinh nghiệm của các nước phát triển và là bài học cần ghi nhớ của
các nước đi sau như Việt Nam.
Nhân
loại đang ở những thập niên đầu thế kỷ XXI, đã chứng kiến những bước tiến diệu
kỳ của khoa học và công nghệ, những đóng góp của nó cho nền sản xuất vật chất
xã hội tạo nên nền kinh tế tri thức. Tài nguyên thiên nhiên là cái hữu hạn, dù
giàu có nhưng khai thác mãi cũng cạn kiệt; nguồn vốn tư bản không phải quốc gia
nào cũng phong phú, chỉ có tri thức của nhân loại ngày càng trở nên bất tận.
Hơn nữa, trong quá trình phát triển bản thân nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác tự nó không thể tham gia các quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Chỉ
thông qua hoạt động thực tiễn của con người bằng sức mạnh của trí tuệ kết hợp với
các nguồn lực mới có thể tạo nên tăng trưởng và tăng trưởng bền vững. Để khai
thác các nguồn vốn, các nguồn tài nguyên và cả nguồn nhân lực một cách hiệu quả
tạo nên chất lượng của sự tăng trưởng thì yếu tố con người đóng vai trò quan trọng.
Điều
này khẳng định ý nghĩa quyết định của nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng
Dân tộc Dân chủ Nhân dân trước đây, cũng như công cuộc đổi mới xây dựng đất nước
hiện nay. Đó là lô-gíc tất yếu và cũng là hướng đi đồng thuận với xu thế phát
triển bền vững phù hợp với xu hướng chung của nhân loại tiến bộ – không tuyệt đối
hoá sức mạnh của kinh tế, không thần thánh hoá khoa học, công nghệ, không gạt bỏ
cội rễ văn hoá truyền thống, không lãng phí nguồn vốn của tương lai. Quan điểm
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đã được khẳng định
trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991- 2000 được Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 và tiếp tục được khẳng định lại
trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI và đó
cũng là quan điểm cơ bản để phát triển chủ nghĩa xã hội Việt Nam những thập
niên đầu thế kỷ XXI.
Đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng trong những thập niên
đầu thế kỷ XXI được thể hiện ở nhiều phương diện. Phát triển con người toàn diện
là một trong những quan điểm cơ bản không thể thiếu để bảo đảm tính nhân văn và
tính hiện thực của xã hội mới. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta đã xác định
“ xã hội xã hội chủ nghĩa mà ta nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện…”(1). Cùng với nhiều
nội dung khác, quan điểm giải phóng con người, hướng người dân tới cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện tiếp tục được duy trì,
khẳng định như những nét cơ bản không thể thiếu trong chủ nghĩa xã hội Việt
Nam.
Nghiên
cứu về con người cho thấy, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội hòa quyện thống nhất
với nhau cùng góp phần tạo ra bản chất người và nét đặc thù của mỗi cá nhân
riêng biệt. Bài học có tính phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là,
không tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật hay yếu tố xã hội, không tách rời yếu tố
sinh học khỏi yếu tố xã hội, sự phát triển của xã hội, tiến bộ xã hội sẽ được
biểu hiện bằng các chỉ số quan tâm đến việc thoả mãn các nhu cầu sinh học cần
thiết của con người cho tương ứng với trình độ phát triển xã hội, và ngược lại,
việc thoả mãn các nhu cầu sinh học của con người cần được đặt trong hoàn cảnh
xã hội cụ thể, trong các quan hệ xã hội cụ thể, trong các điều kiện chính trị,
luật pháp, văn hoá, kinh tế cụ thể.
Những
quan niệm có tính phiến diện khi tuyệt đối hoá mặt tự nhiên, cũng như tuyệt đối
hoá khía cạnh xã hội nào đó của con người đã bộc lộ những hạn chế. Những khám
phá mới nhất trong nhận thức nhân loại về con người cho thấy con người có nguồn
gốc bền chặt từ tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên, chịu sự chi phối của
quy luật tự nhiên, quy luật sinh học… Sự phát triển của khoa học ngày càng thừa
nhận vai trò quan trọng của yếu tố sinh học, sự phát triển con người không thể
bỏ qua yếu tố sinh học tự nhiên. Nó gợi mở hướng đi tất yếu rằng, chiến lược
con người Việt Nam cần có sự đầu tư thích đáng hơn nữa về nguồn gốc, chủng tộc,
cơ chế di truyền, sức khoẻ, tuổi thọ… Phát triển con người Việt Nam toàn diện
hiện nay cần phải được quan tâm trước hết về thể chất.
Những
năm qua, mặc dù thể lực của người Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể
nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Trước năm 1945, người Việt Nam
cao hơn người Nhật 2cm. Hiện nay, người Nhật cao hơn người Việt Nam 10cm. Theo
các nhà nghiên cứu, so sánh chiều cao thanh niên Việt Nam với thanh niên Thái
Lan, nam thanh niên Việt Nam thấp hơn 4cm, nữ thanh niên Việt Nam thấp hơn 2cm.
So với chuẩn quốc tế, nam thanh niên Việt Nam thấp hơn 13,1 cm, nữ thanh niên
Việt Nam thấp hơn 10,7cm. Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi
còn cao. Mỗi năm ở Việt Nam có 7.000 trẻ em bị tử vong liên quan đến suy dinh
dưỡng
Các
chuyên gia nghiên cứu y học và xã hội đã chỉ ra rằng, không chỉ các yếu tố sinh
học ảnh hưởng đến tinh thần và thể chất của con người, mà chính các yếu tố kinh
tế – văn hoá - xã hội là những nhân tố quan trọng tác động tới tinh thần, thể
chất và tuổi thọ của con người. Vì vậy chỉ số HDI là một trong những chỉ số phản
ánh sự tiến bộ của xã hội. Trong những năm đổi mới vừa qua, chỉ số phát triển
con người Việt Nam liên tục có những bước cải thiện đáng kể. Theo báo cáo của
Liên hợp quốc, chỉ số phát triển con người của Việt Nam năm 2004 đứng thứ
112/177 nước; Năm 2006 thứ 109/177 nước; Năm 2008 thứ 105/177 nước. Dù chỉ số
phát triển con người Việt Nam liên tục được cải thiện, song tốc độ còn hạn chế
nên trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, Việt Nam cần đẩy mạnh các giải pháp cần
thiết cải thiện tốc độ phát triển nhanh và bền vững hơn.Việc phát hiện và bồi
dưỡng các năng khiếu và nhiều tiềm năng đặc biệt của con người cũng đựơc đặt
ra. Bên cạnh đó các vấn đề ý thức, nhiều vấn đề khác của con người cần tiếp tục
được bổ sung. Đây chính là vấn đề năng lực đặc biệt của con người, năng lực tiềm
tàng trong cơ thể, trong não bộ, trong thần kinh, nói cụ thể hơn đó là thể lực,
trí tuệ, tâm lực ở dạng tiềm tàng của mỗi con người. Vấn đề mà trước đây C.Mác
đã từng nói tới dưới tên gọi “lực lượng bản chất”, sức mạnh tự nhiên của con
người.
Tuy
nhiên, phát triển con người không dừng lại ở yếu tố tự nhiên, sinh học, bởi lẽ
con người còn là thực thể tự nhiên mang tính xã hội, như có nhà nghiên cứu đã từng
viết: “lịch sử của con người là lịch sử không ngừng văn minh hoá những hành vi
có tính động vật”(3). Ngược lại, việc phát triển con người trong xã hội cụ thể
cũng không thoát ly khỏi những tiền đề, quy luật sinh học vốn có của con người.
Xa rời nguyên tắc cơ bản ấy là sự thoát ly hiện thực, chủ quan, duy ý chí.
Coi
trọng việc phát triển những phẩm chất, nhân cách, giá trị xã hội ở con người là
nội dung quan trọng không thể xem nhẹ. Trong định hướng phát triển con người thời
nào cũng được đề cập chỉ có điều sự định hướng cụ thể ở mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc
lại không giống nhau. Trong xã hội phong kiến phương Đông ở Trung Quốc, Việt
Nam hay một số quốc gia khác, con người mà trung tâm xã hội hướng tới là các
nhà Nho, kẻ sĩ, bậc quân tử; phẩm chất nhân cách cơ bản là sự tôn trọng tôn ti
trật tự trên dưới theo đạo Luân – Thường. Chủ nghĩa tư bản lại hướng tới những
con người năng động, vượt lên cái trật tự vốn có, cổ vũ cho sự tự do sáng tạo
cá nhân. Việc nhấn mạnh những phẩm chất, nhân cách, giá trị xã hội của con người
theo chiều hướng nào, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nó không chỉ mang dấu
ấn nhận thức chung của thời đại, của điều kiện kinh tế - chính trị – xã hội thời
đại hiện đang sống, truyền thống, bản sắc văn hoá của từng dân tộc và cả sự chọn
lựa định hướng, giáo dục, xây dựng của các nhà tư tưởng, các nhà lãnh đạo, quản
lý xã hội v.v.. Nói cách khác, những phẩm chất, nhân cách, giá trị cần phát triển
ở con người ở một giai đoạn nào đó là kết quả tổng hợp của sự lựa chọn dựa trên
những tiền đề được xác định, được quy định không chỉ bởi những điều kiện khách
quan, mà cả những yếu tố có tính chủ quan.
Khi
nói đến con người, C.Mác đã chỉ rõ: “con người không phải là một sinh vật trừu
tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người,
là nhà nước, là xã hội”. Phát triển con người Việt Nam hiện nay tất yếu không
thoát ly khỏi các điều kiện văn hoá, chính trị, xã hội Việt Nam.
Xét
từ góc độ tinh thần, phát triển con người toàn diện những thập niên đầu thế kỷ
XXI, trước hết phải nói đến sự phát triển về trí tuệ, tri thức, hiểu biết, phát
triển con người về mặt trí lực. Bởi lẽ, từ góc độ cá nhân, trí tuệ, tri thức là
một trong những yếu tố không thể thiếu làm nên vẻ đẹp và sức mạnh con người
trong xã hội hiện đại, là yếu tố không thể thiếu để con người phát huy năng lực
chủ động, tích cực, sáng tạo; từ góc độ xã hội, đó là yếu tố không thể thiếu
trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Trí tuệ, tri thức con người Việt Nam hiện nay cũng cần được nhìn nhận ở
góc độ toàn diện. Đó không chỉ là những tri thức về văn hiến, văn chương, lịch
đại như Nho giáo nhấn mạnh mà còn bao gồm những kiến thức khoa học, ứng dụng
công nghệ, phát triển kinh doanh, sản xuất,ở tri thức pháp luật v.v.. phục vụ
cho sự phát triển xã hội và con người. Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI,
khi Việt Nam đang tập trung vào thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phát triển con người về trí tuệ
cần được trang bị vững chắc kiến thức phổ thông làm nền tảng, kết hợp việc đẩy
mạnh hướng nghiệp, đào tạo nghề với việc đào tạo đội ngũ có chuyên môn nghiệp vụ
tinh thông, nắm bắt khoa học công nghệ, kỹ năng liên kết hợp tác để hình thành
đội ngũ lao động chất lượng cao. Hơn nữa, phát triển con người về mặt trí lực
trong thế kỷ XXI cần được quan tâm từ góc độ tư duy sáng tạo, khắc phục lối tư
duy khuôn mẫu giáo điều, ưa thích nghi hơn sự năng động sáng tạo của con người
Việt Nam truyền thống. Hiện nay, ưu thế cạnh tranh của các quốc gia trong quá
trình hội nhập không phải ở chỗ cơ cấu nguồn nhân lực đông mà ở chỗ nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Phát triển trí lực con người là một chỉ số quan trọng,
gia tăng chất lượng con người cá nhân; từ góc độ quốc gia, đó chính là gia tăng
chất lượng dân số, gia tăng chỉ số năng lực cạnh tranh.
Mời
các bạn quan tâm đến đề tài tìm hiểu luận văn có cùng chủ đề “Vai trò của giáo
dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Lê Thị Tình tại đường link: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/33989
Nhận xét
Đăng nhận xét