Nho
giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một
hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do
Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một
xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành
theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
Trong
lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu
từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng
gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách
thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung
"Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.
Tại
Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống
cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ 4, Nho
giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều
Tiên và Việt Nam.
2500
năm trước, Khổng Tử, người được mệnh danh là Vạn Thế Sư Biểu 萬世師表
(khuôn mẫu cho vạn đời sau bắt chước), đã từng quan niệm về cái con người xã hội
ấy. Trong xã hội, có những hạng người sống thuần bằng bản năng như loài cầm
thú. Đó là những người phàm phu tục tử, là những kẻ hạ cấp xét về phương tiện đạo
đức phẩm cách. Những kẻ này, theo Nho giáo, đều gọi là tiểu nhân 小人
dù rằng kẻ ấy có chiếm giữ địa vị cao và giàu có trong xã hội chăng nữa. Nếu tiểu
nhân là người thô lậu, sống thuần vào bản năng, thì ngược lại, quân tử 君子
là người tiến hóa, biết khắc phục bản thân, hiểu mệnh trời, hiểu đạo lý và biết
định mệnh con người là gì. Những đặc tính của kẻ tiểu nhân thì tương phản rõ rệt
với những đặc tính của người quân tử. Nhưng tiểu nhân và quân tử không phải là
hai mặt đối lập nhau, không phải là hai cực đoan, mà quân tử là giai đoạn tiến
hóa của tiểu nhân. Không có tiểu nhân, thì không có quân tử. Quân tử và tiểu
nhân có sự tương đồng, ấy là họ đều có cái Thiên Tính trong người. Cái tính ấy
trọn sáng trọn lành, nó hướng đạo con ngưòi làm điều thiện, điều phải. Con người
vì bị vật dục che khuất lương tri nên mới có phân biệt kẻ ác người thiện. Nho
gia từng nói: «Người ta ai cũng giống nhau vì có bản tính lành, nhưng do tập
nhiễm thói xấu nên họ mới khác xa nhau.» Còn Mạnh Tử thì bảo: «Cái chỗ con người
khác với cầm thú thật không xa mấy. Kẻ thứ dân thì bỏ mất sự sai biệt ấy, còn
người quân tử thì biết bảo tồn nó.»
Rõ
ràng, giữa con người và cầm thú phải có sự phân định khu biệt, nhưng kẻ tiểu
nhân đã bỏ mất sự sai biệt ấy cho nên vẫn còn đồng hóa mình với cầm thú, và cư
xử theo bản năng thấp hèn. Người quân tử thì biết bảo tồn sự sai biệt ấy, để vượt
lên trên loài cầm thú, để khắc phục bản năng thú cầm. Chẳng hạn bản năng ăn uống,
sự đói và khát có thể làm hại tâm (đói ăn vụng, túng làm càn), nhưng người ta
có thể ngăn chặn mối nguy hại đó. Thà đói khát chứ không làm điều sai quấy. Mạnh
Tử nói: «Nếu người ta có thể ngăn cản mối hại của đói khát đừng hại lây đến
lòng dạ mình, như vậy dẫu mình chẳng bằng người nhưng lòng mình chẳng lo buồn.»
Người
ta rất dễ dàng nhận ra đâu là tiểu nhân, đâu là quân tử. Toàn bộ Tứ Thư (Đại Học,
Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử), cho đến Kinh Thi và Kinh Dịch phần lớn đều đề cập
đến đức hạnh của bậc quân tử. Nếu chưa được tài đức đó thì họ vẫn còn là tiểu
nhân.
Người
quân tử thì chú trọng vào nghĩa, kẻ tiểu nhân chú trọng vào lợi.[5] Tiểu nhân
chỉ lo trau chuốt bề ngoài, trọng hư danh, lời lẽ xảo trá. Sở dĩ như vậy vì họ
mong dối gạt người. Họ sợ người khác phê phán nên phải tạo cái vỏ bọc đó để che
đậy lòng dạ xấu xa. Còn quân tử hiểu giá trị của mình (dù ai không biết, không
hiểu mình cũng không sao) [6] nên tự trông cậy vào chính mình. Tiểu nhân thường
kiêu căng hợm hĩnh nhưng trong lòng không bao giờ thư thái, còn quân tử lòng dạ
thư thái mà không kiêu mạn. Tiểu nhân thích a dua bè đảng cho nên dẫu chung đụng
với mọi người nhưng luôn tạo mối bất hòa. Quân tử thì ngược lại, dẫu chung đụng
với nhiều người nhiều tầng lớp nhưng luôn giữ hòa khí. Quân tử là người nhân
nghĩa nên lúc nào cũng cảm thấy an tâm thư thái, tiểu nhân thì ngược lại. Quân
tử làm cho người được tốt đẹp, tiểu nhân chỉ mong gieo điều ác cho người. Tiểu
nhân mà nắm vận mệnh quốc gia, quả là đại họa. Quân tử có hoài bão cao đẹp, tiểu
nhân thì không.
Kinh
điển Nho giáo dạy chúng ta con đường tiến hóa từ tiểu nhân thành bậc quân tử. Nội
chỉ đọc riêng quyển Luận Ngữ thôi, ta có thể trích dẫn vô số câu nói của Khổng
Tử về quân tử. Và có thể hình dung một con người tiến hóa gọi là quân tử.
Quân
tử là người biết mục đích cao cả của kiếp người, biết cái Thiên Mệnh mà trời
trao cho con người, nghĩa là biết cái viễn đích tối hậu của nhân sinh. Người
quân tử có thể tóm ở mấy chữ: Nhân, Trí, Dũng, Lễ, Nghĩa, Trung, Tín, Thành, Hiếu
Đễ, Khoan Thứ, Tự Cường, Hiếu học, Chuyên Cần (Bất Tức) ...
Vì
Nhân (bác ái) nên lòng yêu người tỏa khắp, mong muốn người khác cũng được hạnh
phúc. Vì yêu thương nhân loại, nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha. Không nhớ
lỗi lầm của người khác, mà chỉ chú trọng giáo hóa họ nên người.
Vì
Trí nên biết khôn ngoan suy xét điều phải điều trái, biết minh triết bảo thân
trong cảnh nguy nan, biết biện biệt, kẻ xấu người tốt trong vấn đề xử lý tiếp vật.
Nếu lỡ giao du với kẻ xấu, thì phải tuyệt giao với họ nhưng không nói xấu cho họ.
Vì
Dũng nên không biết sợ sệt là gì. Thấy việc nghĩa bèn ra tay hành động. Nếu đã
hành động thì phải thiết thực chứ không chỉ ở lời nói suông.
Vỉ
Lễ nên giữ được hòa khí, nên trong nhà chẳng ai ghét, trong xã hội chẳng ai oán
mình. Giữ được lễ nên trong việc giao tiếp với người tránh được sỗ sàng, dù
giao du đã lâu. Trong việc lễ, quý nhất là ở lòng thành chứ không phải hình thức
xa hoa lòe loẹt. Khắc kỷ, phục lễ cũng gọi là nhân vậy. Phục lễ nên tự chủ,
không tranh chấp với ai, tuy hợp quần với người nhưng không kéo bè kết đảng.
Vì
Nghĩa nên luôn giữ sự công chánh, chẳng tranh giành với ai. Mỗi khi thấy món lợi
thì nghĩ đến điều nghĩa mà xét có nên thu nhận chăng? Nghĩa là gì ? Chẳng qua
là công ích và lẽ phải, cho nên quân tử không từ nan làm việc gì dù lớn dù nhỏ,
miễn là việc ấy hợp nghĩa. Điều phi nghĩa đã đành không phạm, nhưng chính trong
ý nghĩ cũng không được tơ tưởng đến nó. Người quân tử dù nghèo, vẫn an vui cảnh
nghèo, không vì cùng khốn mà làm điều phi nghĩa. Đã nghèo nhưng không oán than.
Đối với người cầm quyền, nếu họ sai lạc (làm điều phi nghĩa) thì người quân tử
dũng cảm can gián không sợ mích lòng, thà vậy còn hơn là xu phụ dối gạt họ.
Vì
Trung nên giao du với bằng hữu thì hết lòng, làm việc cho người thì hết dạ. Vì
trung nên làm việc cho ai hoặc phụng sự ai thì hết lòng, không phản bội. Nhưng
cái Trung đó không phải là lòng trung máy móc và thiển cận (ngu trung). Bậc
quân tử ngay cả lúc phụng sự vua đâu phải vì cá nhân nhà vua, mà chính vì lẽ Đạo.
Nếu vua mà vô Đạo thì trung làm gì.
Bậc
quân tử vì chữ Tín mà hành xử. Tín
là tin mình, tin người. Nhờ chữ Tín đó mà thành Người. Vì tự tin vào mình nên
dù ai không biết tài đức của mình, mình cũng không buồn không oán. Tự tin vào
tài đức của mình, càng ngày càng trau dồi, để một mai kinh bang tế thế, bấy giờ
người biết mình cũng không muộn. Vì có tin nhau nên việc mới thành tựu, người
mà không tín thì không biết ra thế nào.
Người quân tử cốt yếu là ở lòng Thành. Nhờ lòng thành ấy
mà người khác mới tin tưởng mình. Những lễ lạc cũng chủ yếu là ở lòng thành chứ
không phải hình thức xa hoa lòe loẹt.
Quân tử đã Hiếu lại còn Đễ. Hiếu là cái đạo đối với phụ mẫu.
Đễ là cái đạo đối với anh chị em. Đó là kính những người cha mẹ đã tôn trọng,
yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha mẹ lúc chết cũng như sống, lúc cha mẹ
mất mà tưởng như hãy còn, ấy là chí hiếu vậy. Cái Đạo đối với anh chị em là mỗi
người phải ăn ở đúng phận mình, anh ra anh, em ra em. Đễ là gì ? Chẳng qua là đạo
phụng sự huynh trưởng. Theo Nho giáo, hiếu đễ là đầu mối của lòng nhân (bác ái)
nếu ta chẳng yêu cha mẹ ta, chẳng tôn kính anh em ta mà bảo rằng yêu mến tôn
kính người và cha mẹ người khác, đó là lừa bịp vậy.
Khoan thứ là lòng bao dung quảng đại của bậc quân tử. Bởi
lẽ tiểu nhân là «quân tử chưa thành và sẽ thành», cho nên người quân tử chú trọng
giáo hóa tha nhân hơn là ghét bỏ họ. Quân tử không tưởng nhớ lỗi lầm của người
khác. Người ta phạm điều ác, bởi lẽ không nhận ra cái ranh giới phân định giữa
con người và cầm thú. Bậc quân tử không những nhìn ra cái ranh giới ấy mà còn
giáo hóa tha nhân để họ phân biệt được cái ranh giới ấy và vươn lên cao hơn
loài cầm thú bằng cách khắc phục bản năng tự nhiên. Quân tử khoan thứ cho người,
nhưng không khoan thứ cho mình. Lúc nào cũng phải quán xét để tu thân, nếu mình
có lỗi phải can đảm cải hối. Việc tu thân đó luôn luôn bền bĩ gắng công, không
biết mệt mỏi.
Quân tử muốn tu thân thì phải hiếu học. Ham học hỏi
nghiên cứu thì sẽ khôn ngoan hiểu biết. Hễ học thì phải thực hành. Cái việc học
tập của người quân tử cũng giống như công việc của người thợ làm ngọc, luôn
luôn mài dũa trau chuốt mới có ngọc quí.
Cái học của người quân tử là đem ra giúp dân giúp nước,
kinh bang tế thế. Cho nên khi người quân tử cầm quyền thì tôn chỉ phải là sửa đổi
con người và sửa đổi xã hội. Sửa đổi con người để xã hội hoàn thiện hơn, đồng
thời sửa đổi xã hội để con nguời được hạnh phúc hơn. Đó là hai công việc song
hành và phải được tôn trọng như nhau. Cho nên bậc cai trị phải luôn tu thân mới
đủ tư cách dẫn đạo dân chúng. Nhờ tu thân mà tâm hồn trong sạch, tác phong hợp
lễ, đạo đức tràn đầy. Nhà cai trị lẫn nhân dân đều phải xem việc tu thân làm gốc.
Bậc cai trị phải có lòng nhân, tức là phải yêu thương
dân, vui cái vui của dân và lo cái lo của dân. Thực ra là phải lo trước cái lo
của dân và vui sau cái vui của dân. Bậc cai trị phải lấy dân làm gốc và phải
tâm niệm rằng: quý nhất là dân, sau đó là quốc gia, và thấp nhất là nguời cai
trị (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh 民為貴社稷次之君為輕). Cho nên người cai trị phải mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân. Muốn vậy, phải biết trọng hiền tài, vời họ ra giúp dân giúp nước. Nếu
không tin vào bậc hiền tài thì nước trống không, nếu không có lễ nghĩa thì nước
sẽ loạn. Nhờ chính sách chiêu hiền đãi sĩ, kẻ sĩ trong nước không bỏ nước mà
đi, kẻ hiền tài ở xa xôi hâm mộ mà quy phục, như vậy quốc gia mới mau phú cường,
nhân dân mới chóng hạnh phúc. Đã dùng người hiền tài thì phải trao thực quyền
cho họ, đừng khiến cho họ chỉ có hư vị. Và thận trọng đừng chọn lầm mà khiến kẻ
tiểu nhân ti tiện vượt lên trên người tôn quí (quân tử).
Một chính quyền tốt phải áp dụng nhân trị 仁治 (dùng nhân đức để thu phục người dân), nếu dùng bạo lực
cường quyền thì dân bất đắc dĩ phải tuân theo nhưng lòng dân chẳng phục. Như vậy
Nho giáo quan niệm rất rõ ràng về con người xã hội. Mỗi cá nhân chính là phần tử
bất khả phân của xã hội. Cho nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm với xã hội. Rõ
ràng cuộc sống con người đâu phải là rỗng tuếch vô vị, một mặt con người phải tự
sửa đổi mình (tu thân). Chính sự tự sửa đổi đó đưa con người đến một giá trị tôn
quí siêu việt hơn cầm thú. Và chính sự sửa đổi đó là nguồn gốc của văn minh.
Nhưng mặt khác, con người phải sửa đổi xã hội, bằng cách sửa đổi lẫn nhau, sao
cho những con người chỉ biết sống bằng bản năng (tiểu nhân) tiến hóa lên con
người văn minh (quân tử). Nếu được vậy, thiên hạ thái bình.
Trở lại vấn đề đã nêu ở trên: Sự tiến hóa của con người
rõ ràng trước mắt là làm cho xã hội hoàn thiện hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng sự tiến
hóa ấy còn đi về đâu nữa ? Sự tiến hóa ấy rõ ràng là có định hướng vậy cái viễn
đích (telefinal) xa xôi tối hậu ấy là gì?
Theo quan niệm của Nho giáo, con người không chỉ là con
người xã hội (tiểu nhân và quân tử) mà còn là con người siêu xuất xã hội. Con
người siêu xuất ấy gọi là Thánh Nhân. Thánh Nhân cũng là con người như chúng
ta, nhưng Thánh Nhân cũng vượt ra khỏi đồng loại, siêu xuất trên xã hội người đời,
và là kẻ siêu quần bạt tụy. Thánh Nhân là người đạt Đạo, là Trời được nhân cách
hóa (tức là đã Phối Thiên 配天).
Nho giáo không chỉ là cái nhân đạo thực tiễn, mà còn là
cái đạo học siêu hình, và điều này được nói rõ chủ yếu trong Trung Dung. Theo
Trung Dung, cái bản tính con người chính là mệnh trời (Thiên mệnh 天命) và Đạo là gì? Chẳng qua là noi theo Tính đó (Suất Tính 率性).[10] Tánh là hoàn thiện quang minh (Trung Dung, chương
21) Mệnh vừa Thiên Mệnh, vừa Nhân Mệnh. Muốn hiểu được Mệnh Trời phải am tường
bản tánh. Và định mệnh con người là phải am tường bản tánh đó.[11] Vậy Mệnh Trời
là muốn ta tìm được bản thể của mình, theo tiếng gọi lương tâm, phục tòng thiên
lý để kết hợp với Trời (Phối Thiên) và Thánh Nhân đã đạt được điều đó.
Như vậy trong cái nhìn của Nho Giáo, con người không phải
đơn thuần là con vật hai chân. Cái sinh vật ấy tiềm ẩn trong lòng Thiên Tánh
cao đẹp, toàn thiện toàn mỹ. Nếu cái Thiên Tánh ấy chưa được nhận chân, con người
vẫn tương đồng với cầm thú (tiểu nhân). Nhận ra cái Thiên Tính ấy và tu tập để
nâng cao phẩm giá con người, để thành con người tiến hóa thì gọi là quân tử.
Nhưng định mệnh con người không dừng lại ở chỗ ngôi vị quân tử (dù rằng vô cùng
gian nan khó nhọc mới đạt được ngôi vị này) mà còn tiến hóa tới cái viễn đích
là Phối Thiên (phối hợp với Trời), và đó là ngôi vị Thánh Nhân, một con người
siêu quần bạt tụy.
Thành quân tử đã khó, thành Thánh Nhân lại càng khó thay.
Theo
quan niệm Mạnh Tử, cứ 500 năm mới có một Thánh Nhân ra đời. Thôi thì chúng ta
hãy tạm gác lại quan niệm về con người siêu xuất xã hội này, mà hãy nhìn lại
con người xã hội theo Nho Giáo.
Quả
thực, cái «con người cho thật con NGƯỜI» mà chúng ta đang ao ước và mệnh danh
là «con người hạnh phúc, văn minh, lịch sự, toàn thiện, toàn mỹ» chẳng qua là
con người quân tử mà 2500 năm trước, Khổng Tử đã nói.
Học
giả Mỹ James R. Ware trong quyển bình dịch về Luận Ngữ [12] của ông, đã mệnh
danh đó là lời giáo huấn của bậc đại hiền Trung Hoa (the Teachings of China’s
Greatest Sage) và ông nhận xét rằng: «Việc nghiên cứu chuyên cần Luận Ngữ có thể
giải quyết vấn đề đạo đức sâu thẳm của người Tây phương. Đọc Khổng Tử có thể
giúp ta xác định lại những niềm tin tôn giáo truyền thống, đồng thời cũng giúp
ta nhận thức lại giá trị tình cảm và lý tưởng con người.»
Mời các
bạn quan tâm tham khảo bài viết cùng chủ đề “Tư
tưởng Nho giáo về bản chất con người” của tác giả Phạm Văn Chung tại
đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19544
Nho
giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một
hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do
Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một
xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành
theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
Trong
lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu
từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng
gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách
thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung
"Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.
Tại
Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống
cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ 4, Nho
giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều
Tiên và Việt Nam.
2500
năm trước, Khổng Tử, người được mệnh danh là Vạn Thế Sư Biểu 萬世師表
(khuôn mẫu cho vạn đời sau bắt chước), đã từng quan niệm về cái con người xã hội
ấy. Trong xã hội, có những hạng người sống thuần bằng bản năng như loài cầm
thú. Đó là những người phàm phu tục tử, là những kẻ hạ cấp xét về phương tiện đạo
đức phẩm cách. Những kẻ này, theo Nho giáo, đều gọi là tiểu nhân 小人
dù rằng kẻ ấy có chiếm giữ địa vị cao và giàu có trong xã hội chăng nữa. Nếu tiểu
nhân là người thô lậu, sống thuần vào bản năng, thì ngược lại, quân tử 君子
là người tiến hóa, biết khắc phục bản thân, hiểu mệnh trời, hiểu đạo lý và biết
định mệnh con người là gì. Những đặc tính của kẻ tiểu nhân thì tương phản rõ rệt
với những đặc tính của người quân tử. Nhưng tiểu nhân và quân tử không phải là
hai mặt đối lập nhau, không phải là hai cực đoan, mà quân tử là giai đoạn tiến
hóa của tiểu nhân. Không có tiểu nhân, thì không có quân tử. Quân tử và tiểu
nhân có sự tương đồng, ấy là họ đều có cái Thiên Tính trong người. Cái tính ấy
trọn sáng trọn lành, nó hướng đạo con ngưòi làm điều thiện, điều phải. Con người
vì bị vật dục che khuất lương tri nên mới có phân biệt kẻ ác người thiện. Nho
gia từng nói: «Người ta ai cũng giống nhau vì có bản tính lành, nhưng do tập
nhiễm thói xấu nên họ mới khác xa nhau.» Còn Mạnh Tử thì bảo: «Cái chỗ con người
khác với cầm thú thật không xa mấy. Kẻ thứ dân thì bỏ mất sự sai biệt ấy, còn
người quân tử thì biết bảo tồn nó.»
Rõ
ràng, giữa con người và cầm thú phải có sự phân định khu biệt, nhưng kẻ tiểu
nhân đã bỏ mất sự sai biệt ấy cho nên vẫn còn đồng hóa mình với cầm thú, và cư
xử theo bản năng thấp hèn. Người quân tử thì biết bảo tồn sự sai biệt ấy, để vượt
lên trên loài cầm thú, để khắc phục bản năng thú cầm. Chẳng hạn bản năng ăn uống,
sự đói và khát có thể làm hại tâm (đói ăn vụng, túng làm càn), nhưng người ta
có thể ngăn chặn mối nguy hại đó. Thà đói khát chứ không làm điều sai quấy. Mạnh
Tử nói: «Nếu người ta có thể ngăn cản mối hại của đói khát đừng hại lây đến
lòng dạ mình, như vậy dẫu mình chẳng bằng người nhưng lòng mình chẳng lo buồn.»
Người
ta rất dễ dàng nhận ra đâu là tiểu nhân, đâu là quân tử. Toàn bộ Tứ Thư (Đại Học,
Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử), cho đến Kinh Thi và Kinh Dịch phần lớn đều đề cập
đến đức hạnh của bậc quân tử. Nếu chưa được tài đức đó thì họ vẫn còn là tiểu
nhân.
Người
quân tử thì chú trọng vào nghĩa, kẻ tiểu nhân chú trọng vào lợi.[5] Tiểu nhân
chỉ lo trau chuốt bề ngoài, trọng hư danh, lời lẽ xảo trá. Sở dĩ như vậy vì họ
mong dối gạt người. Họ sợ người khác phê phán nên phải tạo cái vỏ bọc đó để che
đậy lòng dạ xấu xa. Còn quân tử hiểu giá trị của mình (dù ai không biết, không
hiểu mình cũng không sao) [6] nên tự trông cậy vào chính mình. Tiểu nhân thường
kiêu căng hợm hĩnh nhưng trong lòng không bao giờ thư thái, còn quân tử lòng dạ
thư thái mà không kiêu mạn. Tiểu nhân thích a dua bè đảng cho nên dẫu chung đụng
với mọi người nhưng luôn tạo mối bất hòa. Quân tử thì ngược lại, dẫu chung đụng
với nhiều người nhiều tầng lớp nhưng luôn giữ hòa khí. Quân tử là người nhân
nghĩa nên lúc nào cũng cảm thấy an tâm thư thái, tiểu nhân thì ngược lại. Quân
tử làm cho người được tốt đẹp, tiểu nhân chỉ mong gieo điều ác cho người. Tiểu
nhân mà nắm vận mệnh quốc gia, quả là đại họa. Quân tử có hoài bão cao đẹp, tiểu
nhân thì không.
Kinh
điển Nho giáo dạy chúng ta con đường tiến hóa từ tiểu nhân thành bậc quân tử. Nội
chỉ đọc riêng quyển Luận Ngữ thôi, ta có thể trích dẫn vô số câu nói của Khổng
Tử về quân tử. Và có thể hình dung một con người tiến hóa gọi là quân tử.
Quân
tử là người biết mục đích cao cả của kiếp người, biết cái Thiên Mệnh mà trời
trao cho con người, nghĩa là biết cái viễn đích tối hậu của nhân sinh. Người
quân tử có thể tóm ở mấy chữ: Nhân, Trí, Dũng, Lễ, Nghĩa, Trung, Tín, Thành, Hiếu
Đễ, Khoan Thứ, Tự Cường, Hiếu học, Chuyên Cần (Bất Tức) ...
Vì
Nhân (bác ái) nên lòng yêu người tỏa khắp, mong muốn người khác cũng được hạnh
phúc. Vì yêu thương nhân loại, nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha. Không nhớ
lỗi lầm của người khác, mà chỉ chú trọng giáo hóa họ nên người.
Vì
Trí nên biết khôn ngoan suy xét điều phải điều trái, biết minh triết bảo thân
trong cảnh nguy nan, biết biện biệt, kẻ xấu người tốt trong vấn đề xử lý tiếp vật.
Nếu lỡ giao du với kẻ xấu, thì phải tuyệt giao với họ nhưng không nói xấu cho họ.
Vì
Dũng nên không biết sợ sệt là gì. Thấy việc nghĩa bèn ra tay hành động. Nếu đã
hành động thì phải thiết thực chứ không chỉ ở lời nói suông.
Vỉ
Lễ nên giữ được hòa khí, nên trong nhà chẳng ai ghét, trong xã hội chẳng ai oán
mình. Giữ được lễ nên trong việc giao tiếp với người tránh được sỗ sàng, dù
giao du đã lâu. Trong việc lễ, quý nhất là ở lòng thành chứ không phải hình thức
xa hoa lòe loẹt. Khắc kỷ, phục lễ cũng gọi là nhân vậy. Phục lễ nên tự chủ,
không tranh chấp với ai, tuy hợp quần với người nhưng không kéo bè kết đảng.
Vì
Nghĩa nên luôn giữ sự công chánh, chẳng tranh giành với ai. Mỗi khi thấy món lợi
thì nghĩ đến điều nghĩa mà xét có nên thu nhận chăng? Nghĩa là gì ? Chẳng qua
là công ích và lẽ phải, cho nên quân tử không từ nan làm việc gì dù lớn dù nhỏ,
miễn là việc ấy hợp nghĩa. Điều phi nghĩa đã đành không phạm, nhưng chính trong
ý nghĩ cũng không được tơ tưởng đến nó. Người quân tử dù nghèo, vẫn an vui cảnh
nghèo, không vì cùng khốn mà làm điều phi nghĩa. Đã nghèo nhưng không oán than.
Đối với người cầm quyền, nếu họ sai lạc (làm điều phi nghĩa) thì người quân tử
dũng cảm can gián không sợ mích lòng, thà vậy còn hơn là xu phụ dối gạt họ.
Vì
Trung nên giao du với bằng hữu thì hết lòng, làm việc cho người thì hết dạ. Vì
trung nên làm việc cho ai hoặc phụng sự ai thì hết lòng, không phản bội. Nhưng
cái Trung đó không phải là lòng trung máy móc và thiển cận (ngu trung). Bậc
quân tử ngay cả lúc phụng sự vua đâu phải vì cá nhân nhà vua, mà chính vì lẽ Đạo.
Nếu vua mà vô Đạo thì trung làm gì.
Bậc
quân tử vì chữ Tín mà hành xử. Tín
là tin mình, tin người. Nhờ chữ Tín đó mà thành Người. Vì tự tin vào mình nên
dù ai không biết tài đức của mình, mình cũng không buồn không oán. Tự tin vào
tài đức của mình, càng ngày càng trau dồi, để một mai kinh bang tế thế, bấy giờ
người biết mình cũng không muộn. Vì có tin nhau nên việc mới thành tựu, người
mà không tín thì không biết ra thế nào.
Người quân tử cốt yếu là ở lòng Thành. Nhờ lòng thành ấy
mà người khác mới tin tưởng mình. Những lễ lạc cũng chủ yếu là ở lòng thành chứ
không phải hình thức xa hoa lòe loẹt.
Quân tử đã Hiếu lại còn Đễ. Hiếu là cái đạo đối với phụ mẫu.
Đễ là cái đạo đối với anh chị em. Đó là kính những người cha mẹ đã tôn trọng,
yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha mẹ lúc chết cũng như sống, lúc cha mẹ
mất mà tưởng như hãy còn, ấy là chí hiếu vậy. Cái Đạo đối với anh chị em là mỗi
người phải ăn ở đúng phận mình, anh ra anh, em ra em. Đễ là gì ? Chẳng qua là đạo
phụng sự huynh trưởng. Theo Nho giáo, hiếu đễ là đầu mối của lòng nhân (bác ái)
nếu ta chẳng yêu cha mẹ ta, chẳng tôn kính anh em ta mà bảo rằng yêu mến tôn
kính người và cha mẹ người khác, đó là lừa bịp vậy.
Khoan thứ là lòng bao dung quảng đại của bậc quân tử. Bởi
lẽ tiểu nhân là «quân tử chưa thành và sẽ thành», cho nên người quân tử chú trọng
giáo hóa tha nhân hơn là ghét bỏ họ. Quân tử không tưởng nhớ lỗi lầm của người
khác. Người ta phạm điều ác, bởi lẽ không nhận ra cái ranh giới phân định giữa
con người và cầm thú. Bậc quân tử không những nhìn ra cái ranh giới ấy mà còn
giáo hóa tha nhân để họ phân biệt được cái ranh giới ấy và vươn lên cao hơn
loài cầm thú bằng cách khắc phục bản năng tự nhiên. Quân tử khoan thứ cho người,
nhưng không khoan thứ cho mình. Lúc nào cũng phải quán xét để tu thân, nếu mình
có lỗi phải can đảm cải hối. Việc tu thân đó luôn luôn bền bĩ gắng công, không
biết mệt mỏi.
Quân tử muốn tu thân thì phải hiếu học. Ham học hỏi
nghiên cứu thì sẽ khôn ngoan hiểu biết. Hễ học thì phải thực hành. Cái việc học
tập của người quân tử cũng giống như công việc của người thợ làm ngọc, luôn
luôn mài dũa trau chuốt mới có ngọc quí.
Cái học của người quân tử là đem ra giúp dân giúp nước,
kinh bang tế thế. Cho nên khi người quân tử cầm quyền thì tôn chỉ phải là sửa đổi
con người và sửa đổi xã hội. Sửa đổi con người để xã hội hoàn thiện hơn, đồng
thời sửa đổi xã hội để con nguời được hạnh phúc hơn. Đó là hai công việc song
hành và phải được tôn trọng như nhau. Cho nên bậc cai trị phải luôn tu thân mới
đủ tư cách dẫn đạo dân chúng. Nhờ tu thân mà tâm hồn trong sạch, tác phong hợp
lễ, đạo đức tràn đầy. Nhà cai trị lẫn nhân dân đều phải xem việc tu thân làm gốc.
Bậc cai trị phải có lòng nhân, tức là phải yêu thương
dân, vui cái vui của dân và lo cái lo của dân. Thực ra là phải lo trước cái lo
của dân và vui sau cái vui của dân. Bậc cai trị phải lấy dân làm gốc và phải
tâm niệm rằng: quý nhất là dân, sau đó là quốc gia, và thấp nhất là nguời cai
trị (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh 民為貴社稷次之君為輕). Cho nên người cai trị phải mưu cầu hạnh phúc cho nhân
dân. Muốn vậy, phải biết trọng hiền tài, vời họ ra giúp dân giúp nước. Nếu
không tin vào bậc hiền tài thì nước trống không, nếu không có lễ nghĩa thì nước
sẽ loạn. Nhờ chính sách chiêu hiền đãi sĩ, kẻ sĩ trong nước không bỏ nước mà
đi, kẻ hiền tài ở xa xôi hâm mộ mà quy phục, như vậy quốc gia mới mau phú cường,
nhân dân mới chóng hạnh phúc. Đã dùng người hiền tài thì phải trao thực quyền
cho họ, đừng khiến cho họ chỉ có hư vị. Và thận trọng đừng chọn lầm mà khiến kẻ
tiểu nhân ti tiện vượt lên trên người tôn quí (quân tử).
Một chính quyền tốt phải áp dụng nhân trị 仁治 (dùng nhân đức để thu phục người dân), nếu dùng bạo lực
cường quyền thì dân bất đắc dĩ phải tuân theo nhưng lòng dân chẳng phục. Như vậy
Nho giáo quan niệm rất rõ ràng về con người xã hội. Mỗi cá nhân chính là phần tử
bất khả phân của xã hội. Cho nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm với xã hội. Rõ
ràng cuộc sống con người đâu phải là rỗng tuếch vô vị, một mặt con người phải tự
sửa đổi mình (tu thân). Chính sự tự sửa đổi đó đưa con người đến một giá trị tôn
quí siêu việt hơn cầm thú. Và chính sự sửa đổi đó là nguồn gốc của văn minh.
Nhưng mặt khác, con người phải sửa đổi xã hội, bằng cách sửa đổi lẫn nhau, sao
cho những con người chỉ biết sống bằng bản năng (tiểu nhân) tiến hóa lên con
người văn minh (quân tử). Nếu được vậy, thiên hạ thái bình.
Trở lại vấn đề đã nêu ở trên: Sự tiến hóa của con người
rõ ràng trước mắt là làm cho xã hội hoàn thiện hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng sự tiến
hóa ấy còn đi về đâu nữa ? Sự tiến hóa ấy rõ ràng là có định hướng vậy cái viễn
đích (telefinal) xa xôi tối hậu ấy là gì?
Theo quan niệm của Nho giáo, con người không chỉ là con
người xã hội (tiểu nhân và quân tử) mà còn là con người siêu xuất xã hội. Con
người siêu xuất ấy gọi là Thánh Nhân. Thánh Nhân cũng là con người như chúng
ta, nhưng Thánh Nhân cũng vượt ra khỏi đồng loại, siêu xuất trên xã hội người đời,
và là kẻ siêu quần bạt tụy. Thánh Nhân là người đạt Đạo, là Trời được nhân cách
hóa (tức là đã Phối Thiên 配天).
Nho giáo không chỉ là cái nhân đạo thực tiễn, mà còn là
cái đạo học siêu hình, và điều này được nói rõ chủ yếu trong Trung Dung. Theo
Trung Dung, cái bản tính con người chính là mệnh trời (Thiên mệnh 天命) và Đạo là gì? Chẳng qua là noi theo Tính đó (Suất Tính 率性).[10] Tánh là hoàn thiện quang minh (Trung Dung, chương
21) Mệnh vừa Thiên Mệnh, vừa Nhân Mệnh. Muốn hiểu được Mệnh Trời phải am tường
bản tánh. Và định mệnh con người là phải am tường bản tánh đó.[11] Vậy Mệnh Trời
là muốn ta tìm được bản thể của mình, theo tiếng gọi lương tâm, phục tòng thiên
lý để kết hợp với Trời (Phối Thiên) và Thánh Nhân đã đạt được điều đó.
Như vậy trong cái nhìn của Nho Giáo, con người không phải
đơn thuần là con vật hai chân. Cái sinh vật ấy tiềm ẩn trong lòng Thiên Tánh
cao đẹp, toàn thiện toàn mỹ. Nếu cái Thiên Tánh ấy chưa được nhận chân, con người
vẫn tương đồng với cầm thú (tiểu nhân). Nhận ra cái Thiên Tính ấy và tu tập để
nâng cao phẩm giá con người, để thành con người tiến hóa thì gọi là quân tử.
Nhưng định mệnh con người không dừng lại ở chỗ ngôi vị quân tử (dù rằng vô cùng
gian nan khó nhọc mới đạt được ngôi vị này) mà còn tiến hóa tới cái viễn đích
là Phối Thiên (phối hợp với Trời), và đó là ngôi vị Thánh Nhân, một con người
siêu quần bạt tụy.
Thành quân tử đã khó, thành Thánh Nhân lại càng khó thay.
Theo
quan niệm Mạnh Tử, cứ 500 năm mới có một Thánh Nhân ra đời. Thôi thì chúng ta
hãy tạm gác lại quan niệm về con người siêu xuất xã hội này, mà hãy nhìn lại
con người xã hội theo Nho Giáo.
Quả
thực, cái «con người cho thật con NGƯỜI» mà chúng ta đang ao ước và mệnh danh
là «con người hạnh phúc, văn minh, lịch sự, toàn thiện, toàn mỹ» chẳng qua là
con người quân tử mà 2500 năm trước, Khổng Tử đã nói.
Học
giả Mỹ James R. Ware trong quyển bình dịch về Luận Ngữ [12] của ông, đã mệnh
danh đó là lời giáo huấn của bậc đại hiền Trung Hoa (the Teachings of China’s
Greatest Sage) và ông nhận xét rằng: «Việc nghiên cứu chuyên cần Luận Ngữ có thể
giải quyết vấn đề đạo đức sâu thẳm của người Tây phương. Đọc Khổng Tử có thể
giúp ta xác định lại những niềm tin tôn giáo truyền thống, đồng thời cũng giúp
ta nhận thức lại giá trị tình cảm và lý tưởng con người.»
Mời các
bạn quan tâm tham khảo bài viết cùng chủ đề “Tư
tưởng Nho giáo về bản chất con người” của tác giả Phạm Văn Chung tại
đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19544
Nhận xét
Đăng nhận xét