Trong
những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thu hút các nguồn ngoại tệ, đặc biệt là USD. Đây là nguồn lực quan trọng
giúp chúng ta giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng...
Nhưng điều gì cũng có hai mặt của nó. Chính lượng USD ồ ạt đổ vào Việt Nam nếu
không được kiểm soát tốt cũng sẽ gây ra hậu quả to lớn, đó là tình trạng đô la
hóa nền kinh tế.
Đô
la hóa là tình trạng mà tỉ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng
khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Đô
la hóa được phân ra làm 3 loại như sau:
Đô
la hóa không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền
kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền
kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng
đồng đô la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm dùng
đô la đối với hầu hết giao dịch trong nước.
Đô la hóa bán chính thức hay còn gọi là đô la
hóa từng phần là tình trạng đồng đô la ư được sử dụng như một đơn vị kế toán,
phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị và phương tiện thanh toán trong khi đồng nội
tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có
chức năng như một đồng tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước ở
tình trạng này vẫn duy trì một Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền
tệ của họ.
Đô la hóa chính thức hay còn gọi là đô la hóa
hoàn toàn xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu
hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sẻ dụng hợp pháp trong các hợp đồng
giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ.
Nếu đồng ngoại tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng
tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường, các nước chỉ áp dụng đô
la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định
kinh tế.
Trên
thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh lệch lãi
suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao hơn
bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD
hơn là VNĐ. Tại sao?
Nguyên
nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do
những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó
là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên
90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm
thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời
gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại
hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ
vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.
Một
nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh,
đặc biệt là USD bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh
với mức tăng bình quân 10%/năm.
Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách
du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng
với lượng du khách đến Việt Nam.
Tiền
lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án
100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam...
được trả bằng ngoại tệ.
Số
lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v...
ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của
các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
Tiền
viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện
quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài
trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.
Hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp.
Kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của Ngoại
tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế
ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
Với
lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng
trước tình trạng Đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Trước
thực trạng trên, chúng ta cần phải nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng
khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ Đô la hóa
không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát,
phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của Đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai
thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực.
Nhận xét
Đăng nhận xét