Hóa thạch Chân khớp (Arthropoda)



   Động vật chân khớp là ngành động vật có số lượng loài đông đảo nhất (hơn 2000 000 loài) trên Trái Đất. Chúng thích nghi với nhiều điều kiện sống rất khác nhau. Tất cả động vật chân khớp đều có cơ thể phân đốt và đối xứng hai bên. Số lượng đốt giao động từ 8 đến 180. Các đốt có hình dạng khác nhau, một số gắn liền nhau tạo nên các phần của cơ thể; thường người ta phân biệt thành ba phần: đầu, ngực, bụng. Thường mỗi đốt đều mang chi. Các chi gắn kết động với đốt thân và cấu tạo từ những phần riêng biệt, có các chức năng khác nhau. 



Cơ thể động vật Chân khớp có các lớp cuticun bền vững bao bọc, lớp này thường tạo thành một bộ giáp cứng. Động vật Chân khớp tăng lớn theo chu kỳ, nó chỉ lớn thêm vào thời kỳ lột xác. Chúng sinh sản hữu tính và phần lớn là những động vật đơn tính. Động vật Chân khớp hay Động vật Chân đốt là những động vật không có xương sống, có một bộ xương ngoài (bộ xương vĩnh viễn), một cơ thể chia đốt và những đốt phụ.
Động vật Chân khớp thuộc Ngành Chân khớp (Arthropoda từ tiếng Hy Lạp ἄρθρον arthron, "khớp", và ποδός podos "chân", nghĩa là "chân khớp"). Có hơn 1 triệu loài chân khớp được mô tả, khiến chúng chiếm trên 80% tất cả các sinh vật được tìm thấy, và là một trong hai nhóm động vật thực sự sinh sống được ở môi trường khô – nhóm khác là động vật có màng ối. Chúng có kích thước từ rất nhỏ như sinh vật phù du cho đến chiều dài vài mét.


Ước tính có khoảng 1.170.000 loài động vật chân khớp đã được miêu tả, và chúng chiếm hơn 80% tất cả các loài động vật còn sống đã được biết đến. Một nghiên cứu khác ước tính rằng có khoảng từ 5 đến 10 triệu loài còn tồn tại, bao gồm đã miêu tả và chưa miêu tả.  Ước tính tổng số loài còn sống là cực kỳ khó khăn do nó thường phụ thuộc vào một loại các giả thiết để mở rộng quy mô tính toán ở từng khu vực đặc biệt nhân lên cho toàn thế giới. Một nghiên cứu năm 1992 ước tính có 500.000 loài động vật và thực vật ở Costa Rica, trong đó có 365.000 loài là động vật chân khớp.

Chúng là các sinh vật quan trọng trong các hệ sinh thái biển, nước ngọt, đất liền và trong không khí, và là một trong hai nhóm động vật chính đã thích nghi trong các môi trường khô; nhóm còn lại là amniote, là những loài còn sống là bò sát, chim và thú.  Một phân nhóm động vật chân khớp là công trùng, đây là nhóm có nhiều loài nhất trong tất cả các hệ sinh thái trên cạn và nước ngọt. Loài côn trùng nhẹ nhất có khối lượng nhỏ hơn 25 microgram, trong khi loài nặng nhất hơn 70 gram. Một số loài giáp xác thì có kích thước lớn hơn nhiều; như chân của các loài cua nhện Nhật Bản có thể dài đến 4mét. Người ta cho rằng các động vật Ediacaran Parvancorina và Spriggina cách đây khoảng 555 triệu năm là các động vật chân khớp. Các động vật chân khớp nhỏ có vỏ sống như động vật hai mảnh vỏ đã được tìm thấy trong các lớp hóa thạch tuổi Cambri sớm từ 542 đến 540 triệu năm ở Trung Quốc. Các hóa thạch bọ ba thùy tuổi Cambri sớm nhất là 530 triệu năm, nhưng lớp này đã từng khác đa dạng và phân bố toàn cầu. Các cuộc kiểm tra lại các hóa thạch trong đá phiến sét Burgess thập niên 1970 có tuổi 505 triệu năm đã xác định có một số loài động vật chân đốt, một số loài trong có không thể xếp vào bất kỳ nhóm nào đã từng được nhận dạng, và do đó đã nổ ra các cuộc tranh luận về sự bùng nổ Cambri. Hóa thạch của Marrella trong đá phiến sét Burgess Shale đã cung cấp bằng chứng rõ ràng sớm nhất về sự lột xác.
Các hóa thạch giáp xác sớm nhất có tuổi khoảng 514 triệu năm trong kỷ Cambri, và tôm hóa thạch có tuổi khoảng 500 triệu năm. Hóa thạch giáp xác thường được tìm thấy từ kỷ Ordovic trở về sau. Chúng hầu hết sống hoàn toàn trong nước, có thể do chúng chưa bao giờ phát triển các hệ bài tiết that conserve water.

Nhận xét