Hàn Quốc tham chiến tại Việt Nam: Động cơ và bối cảnh



Ngày 20/7/1964, Dự án đưa lính đánh thuê sang miền Nam Việt Nam được trình và nhanh chóng được tất cả các thành viên Quốc hội Đại Hàn dân quốc ủng hộ, bỏ phiếu thông qua ngày 31/7/1964, Bắt đầu từ ngày 24/8/1964, binh lính Đại Hàn có mặt tại Việt Nam và lập tức gây ra những tội ác trời không dung đất không tha.



Đến cuối năm 1966, tổng số quân Đại Hàn tại Việt Nam đã lên đến 45.660 người, chiếm hơn 50% lực lượng quân đội nước ngoài tại miền Nam Việt Nam và 25% tổng lực lượng chiến đấu của Mỹ trên chiến trường Quân khu 5. Năm 1968 là năm Hàn Quốc có lực lượng quân sự cao nhất, lên tới 50.003 người. Chính phủ Hàn Quốc còn ra sức thuyết phục Mỹ đồng ý không cắt giảm lực lượng tại Hàn Quốc nếu như không có sự trao đổi và thỏa thuận trước.
Việc Mỹ bố trí các sư đoàn Mãnh Hổ, Bạch Mã, Rồng Xanh của Đại Hàn chốt giữ ở chiến trường Quân khu 5- một địa bàn chiến lược trọng yếu, cho thấy Mỹ tin tưởng và đánh giá cao khả năng của đội quân đánh thuê trung thành này. Quân đội Hàn Quốc trở thành lực lượng “xương sống” trong các cuộc hành quân bình định và tìm diệt, chia sẻ tới gần 40% nhân lực và sinh mạng chiến tranh cho nước Mỹ. Theo thống kê chính thức của Chính phủ Hàn Quốc, từ tháng 10-1965 đến tháng 3-1973, quân đội Hàn Quốc tiến hành và tham gia tiến hành 1.170 cuộc hành quân quy mô cấp đại đội trở lên, hơn 556.000 cuộc hành quân quy mô cấp trung đội trở xuống, gây ra hàng loạt những vụ thảm sát đẫm máu và tàn khốc (thống kê chưa đầy đủ có 43 vụ thảm sát dân thường, trong đó 13 vụ giết 100 người trở lên, có vụ hơn 1.000 người).


Không chỉ đảm nhiệm các hoạt động quân sự, lực lượng Nam Hàn còn tích cực tiến hành công tác dân sự/dân vận – tâm lý chiến. Nếu như trong giai đoạn đầu tham chiến, tỷ lệ các hoạt động quân sự chiếm 70%, công tác dân sự – tâm lý chiến chỉ chiếm 30%, thì từ nửa cuối năm 1967, tỷ lệ này được nâng lên ngang bằng (50/50). Tuy nhiên, các hoạt động dân sự này luôn được tiến hành song song với những trận càn quét, bắn giết man rợ nhằm vào dân thường Việt Nam.
3. Đại Hàn làm giàu từ chiến tranh Việt Nam, từ tiền bán máu và bán trôn người Triều Tiên, thế giới chỉ có Park Chung-hee là một.
Phục vụ mục tiêu kinh tế, Hàn Quốc xin Mỹ ký “Bản ghi nhớ Brown” (Brown Memorandum, ngày 25/2/1966). Theo đó, đổi lấy việc Hàn Quốc đưa quân đánh thuê đến miền Nam Việt Nam, Mỹ cam kết cung cấp một số lượng lớn trang thiết bị cho việc hiện đại hóa quân đội Hàn Quốc, mua của Hàn Quốc các trang thiết bị quân nhu, các loại hàng hóa cần thiết khác để cung cấp cho quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam, tăng cường viện trợ kỹ thuật cho Hàn Quốc trên tất cả các lĩnh vực nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của Hàn Quốc; tăng thêm các khoản cho vay của Cơ quan phát triển quốc tế AID….
Hàn Quốc đã thu được những khoản lợi nhuận kếch xù từ xương máu của binh lính và nhân phẩm phụ nữ Hàn. Họ không mất bất kỳ một phí tổn nào cho lực lượng quân đội ở Nam Việt Nam, mà riêng từ 1965 đến năm 1970, đã nhận được từ Mỹ 1 tỷ USD viện trợ, 150 triệu USD vốn vay phát triển. Hàn Quốc cũng nhận được những hợp đồng thầu xây dựng béo bở, những hợp đồng xuất khẩu lao động có lợi nhuận cao (chủ yếu là công nhân xây dựng căn cứ quân sự và gái điếm), chiếm tới 70% tổng số lao động Hàn Quốc tại nước ngoài khi đó. Số ngoại tệ mà Hàn Quốc thu được từ miền Nam Việt Nam do Mỹ trả tăng đều qua các năm, bình quân chiếm 38% tổng xuất khẩu sản phẩm và 47% tổng số tiền Hàn Quốc nhận được từ nước ngoài. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra sự phát triển ngoạn mục của kinh tế Hàn Quốc thập niên 60, 70: Từ năm 1965 đến năm 1975, xuất khẩu của Hàn Quốc tăng 29 lần và tổng sản phẩm quốc nội (GNP) tăng 14 lần, năm 1971 thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc tăng hơn gấp 3 lần so với năm 1961.
Về quân sự, trong thời gian Hàn Quốc gửi quân sang Việt Nam, viện trợ quân sự của Mỹ cho Hàn Quốc tăng hơn gấp 2 lần, bình quân mỗi năm vào khoảng 370 triệu USD. Nhờ có các khoản viện trợ đó, Hàn Quốc đã từng bước hiện đại hoá quân đội, phát triển mạnh mẽ công nghiệp quốc phòng.
Tuy nhiên, Đại Hàn đã phải trả giá đắt cho việc đưa quân vào miền Nam Việt Nam: hơn 5.000 binh lính thiệt mạng, 11.000 người mang thương tật vĩnh viễn; 100.000 nhiễm chất độc da cam. Chiến tranh Việt Nam đã qua đi qua hơn 40 năm, song “hội chứng chiến tranh Việt Nam” ở Hàn Quốc dai dẳng, nhức nhối không kém gì ở nước Mỹ và vẫn đang giày vò tinh thần hàng ngàn cựu chiến binh và các cô gái điếm năm xưa. Trớ trêu là truyền thông Hàn chỉ tập trung tố cáo Nhật làm nhục phụ nữ Triều Tiên trong thế chiến 2!!!
Cả Bắc Triều Tiên và Đại Hàn Dân quốc đều hỗ trợ vật chất và nhân lực cho các đồng minh ý thức hệ của họ trong chiến tranh Việt Nam, mặc dù số lượng binh lính Hàn Quốc trên mặt đất là lớn hơn.[6] Khi đó, Tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn đã đề nghị gửi quân đến Việt Nam sớm nhất là năm 1954, nhưng đề nghị của ông bị từ chối bởi Bộ Ngoại giao Mỹ, các nhân viên đầu tiên của Hàn Quốc tới Việt Nam 10 năm sau đó không phải để tham chiến: mười võ sư Taekwondo, cùng với 34 cán bộ, 96 binh sĩ thuộc một đơn vị bệnh viện của quân đội Hàn Quốc.
Tổng cộng, giữa 1965 và 1973, đã có 312.853 binh sĩ Nam Hàn chiến đấu tại Việt Nam, Theo số liệu từ phía Hàn Quốc ước tính quân đội Nam Hàn đã giết chết 41.400 binh sĩ quân đội Bắc Việt và 5.000 dân thường.
Binh lính Hàn Quốc cũng bị cáo buộc tội ác chiến tranh, và được cho là đã bỏ lại đằng sau hàng ngàn đứa trẻ Lai Đại Hàn giữa Hàn Quốc và Việt Nam
Sau một quyết định của Đảng Lao động Triều Tiên vào tháng 10 năm 1966, vào đầu năm 1967 Bắc Triều Tiên đã gửi một phi đội máy bay chiến đấu cho Bắc Việt để dự phòng cho trung đoàn không quân 921 và 923 bảo vệ Hà Nội. Họ ở lại qua năm 1968, 200 phi công đã được báo cáo có phục vụ. Ngoài ra, ít nhất là hai trung đoàn pháo binh phòng không cũng được gửi đến.

Nhận xét